Bạn là người Mê Cine? Bạn luôn muốn ghi lại cảm xúc của mình sau khi xem một phim hay? Nhưng làm sao để có một bài cảm nhận phim chất lượng? Hãy nằm lòng 7 bí kíp dưới đây. 1. Không nên tiết lộ quá nhiều nội dung phim Theo lý thuyết, bài review phim hoàn toàn có thể tiết lộ nội dung, tuy nhiên trong thực tế, đối tượng đọc review đa số là những người chưa xem phim, họ rất khó chịu và sẽ dừng đọc ngay khi gặp một bài viết có tính “spoil”, đặc biệt về những cú twist. Giữ chặt những cao trào nhưng đồng thời đưa ra một chút tò mò khi đề cập đến những đoạn phim đó sẽ giúp bài cảm nhận được chú ý hơn. 2. Review không phải quảng cáo Hãy luôn nhớ: Độc giả rất thông minh, họ hoàn toàn có thể phân biệt được đâu là một bài review khách quan, đâu là một bài quảng cáo. Đừng cố gắng lôi kéo người khác xem phim, tránh hô hào sáo rỗng, thay vào đó hãy tập trung vào những gì khiến bạn thực sự yêu mến bộ phim một cách trung thực nhất. 3. Không có gì là tuyệt đối! Tất cả mọi vấn đề đều có 2 mặt: tốt và hạn chế, phim ảnh cũng không ngoại lệ! Việc thần tượng hóa một phim chỉ khiến bài review của bạn trở nên không thực tế. Hãy thẳng thắn thừa nhận những điều khiến bạn tiếc nuối sau khi xem phim nhé! 4. Chú trọng cảm xúc Cảm xúc của chính bạn từ bộ phim. Nó sẽ tạo được nhiều đồng cảm hơn bất kỳ sự khoa trương ngôn ngữ nào. Hãy viết bằng cả trái tim. Đừng nghĩ mình không giỏi câu chữ, đừng sợ việc đúng – sai khi viết cảm nhận. Mọi thứ sẽ được bù đắp bằng cảm xúc chân thành của bạn.  5. Biết chọn lọc hình ảnh là một lợi thế! Việc chọn lọc những hình ảnh đắt giá, những hình ảnh khiến bạn yêu mến bộ phim vào trong bài viết, sẽ giúp bài viết của bạn bắt mắt, ấn tượng hơn. Bên cạnh đó, việc phân tích màu sắc, bố cục, góc camera cũng giúp bạn có nhiều phát hiện mới mẻ về phim. 6. Luôn đưa thông tin chính xác về đạo diễn Nếu bạn là một người Mê Cine chính hiệu, hẳn sẽ không bỏ lỡ các thông tin về đạo diễn phim. Thông tin chính xác kèm dẫn chứng sẽ khiến bài cảm nhận phim của bạn sâu hơn và đáng tin cậy hơn. 7. Liên văn bản nếu cần thiết Cuối cùng, đừng quên tìm hiểu các thông tin như: Kịch bản phim có phải chuyển thể/ làm lại từ tác phẩm khác không? Sau đó liên văn bản đến tác phẩm gốc và các phim liên quan để có cái nhìn tổng quan nhất nhé! Bí kíp vẫn chỉ là… bí kíp! Không có một công thức chung cho bất kỳ bài cảm nhận phim nào! Chỉ cần bạn có niềm yêu thích thôi thúc bạn viết xuống, đó là chỗ dựa đáng tin nhất! ————- Đừng quên cuộc thi viết cảm nhận phim Mê Cine lần 1 vẫn nhận bài đến ngày 15/3/2020 nhé! Thông tin chi tiết cuộc thi Viết cảm nhận phim – Mê Cine lần 1 và link gửi bài dự thi: Tại đây ————- Lạc An

Nhằm tạo sân chơi bổ ích cho cộng đồng thích xem phim, đọc sách, bình phim, đặc biệt là cộng đồng muốn thử sức với nghề viết kịch bản; nhằm ghi dấu lại một mùa Oscar hấp dẫn, gay cấn, Comic Media Academy (CMA) tổ chức cuộc thi Viết Cảm Nhận Phim: Mê Cine lần 1. I. ĐỐI TƯỢNG THAM GIA  – Toàn thể công dân đang sinh sống, học tập và làm việc trên lãnh thổ Việt Nam.  – Độ tuổi: 13+ II. CHỦ ĐỀ Viết cảm nhận cho những phim được đề cử giải Oscar ở các hạng mục:  – Phim điện ảnh xuất sắc  – Kịch bản gốc xuất sắc  – Kịch bản chuyển thể xuất sắc  – Phim hoạt hình xuất sắc  – Phim hoạt hình ngắn xuất sắc III. YÊU CẦU VỀ BÀI CẢM NHẬN PHIM  – Bài dự thi Mê Cine được gửi online dưới định dạng word hoặc pdf về CMA bằng cách điền thông tin và đính kèm bài dự thi theo form Google Docs: Tại đây  – Người dự thi chọn phim ở mục II, có thể phân tích một phân cảnh, một trường đoạn, một chi tiết, hình tượng/ biểu tượng…  – Ngôn ngữ: Tiếng Việt  – Font chữ Times New Roman, size chữ 13.  – Tối đa: 1000 chữ  – Hình thức dự thi: cá nhân.  – Một cá nhân có thể gửi nhiều bài dự thi. IV. THỜI GIAN DỰ THI & TRAO GIẢI – Thời gian gửi bài: 2/3/2020 – 15/3/2020 – Công bố kết quả: 23/3/2020 V. GIẢI THƯỞNG Giải nhất: Chọn 1 trong 2 gói quà sau 1. Học bổng toàn phần khoá Biên Kịch Cơ Bản tại CMA trị giá 7.200.000 VND 2. Sách dạy biên kịch độc quyền của CMA + 1 cặp vé xem phim. Giải 2: Voucher 300.000 VND mua sách tại Nhà sách trực tuyến Bookbuy + 1 cặp vé xem phim Giải 3: 1 cặp vé xem phim

Lễ trao giải Oscars 2018 có quy định mới 6

Hội đồng chấm giải của Oscars 2018 đã có sự thay đổi so với trước đây. Điều này khiến nhiều người đặt câu hỏi cho cơ hội của các bộ phim hoạt hình có kinh phí thấp trong cuộc đua Oscars năm 2018. Theo đó, nhiều bộ phim hoạt hình độc lập có kinh phí thấp nhưng đạt chất lượng cao vẫn có cơ hội tiến vào Oscars theo sự tiến cử từ phía công ty phát hành phim độc lập GKIDS. Được biết, những năm gần đây, GKIDS đã mua lại hàng loạt tác phẩm được đánh giá cao nhưng do kinh phí quảng cáo thấp nên ít người biết đến. Hành động này đã đưa GKIDS nổi lên như một “đế chế” đáng gờm cạnh tranh với các ông lớn như Disney, Pixar tại hạng mục Phim hoạt hình xuất sắc của Oscars. Tính từ năm 2009 đến nay, GKIDS đã sở hữu đến 9 đề cử Oscar cho hạng mục Phim hoạt hình xuất sắc. Còn nhớ năm 2015, “bom tấn” đình đám là The Lego Movie do Warner Bros. phát hành đã bị Ủy ban đề cử Oscars thẳng thừng gạt bỏ. Thay vào đó, họ đưa hai bộ phim hoạt hình cổ tích tinh tế của GKIDS là Song of the Sea và The Tale of the Princess Kaguya vào danh sách đề cử chính thức. Thế nhưng, có vẻ như cơ hội sẽ ngày càng thu hẹp sau những thay đổi mới từ hội đồng chấm giải của Oscars. Trước đây, những thành viên đặc biệt trong Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh Hoa Kỳ mới được lựa chọn vào Uỷ ban đề cử và có quyền tham gia đánh giá hạng mục Phim hoạt hình xuất sắc nhất. Song, kể từ năm nay, bất kỳ thành viên nào của Viện Hàn lâm sẵn sàng tham gia đều được gia nhập Uỷ ban. Quyết định này khiến giới quan sát chuyên môn cho rằng, các hãng phim lớn có nhiều lợi thế hơn hẳn trong cuộc đua giành tượng vàng danh giá Oscar, trong khi các tác phẩm độc lập do GKIDS bảo trợ sẽ bị lép vế hơn so với trước. Trước thay đổi mới trong Hội đồng chấm giải Oscars, CEO của GKIDS là Eric Beckman vẫn tỏ ra lạc quan khi trả lời phỏng vấn với The Hollywood Reporter. Ông cho biết, sự thay đổi này không tác động quá lớn, nhưng nó sẽ làm cho các bộ phim nhỏ khó khăn và tốn kém hơn để thu hút sự chú ý. Đồng thời, ông cũng thừa nhận về hạn chế của những tác phẩm độc lập kinh phí thấp trong việc quảng bá, vận đồng để lôi kéo sự chú ý của các thành viên Viện Hàn lâm. Ngược lại, các hãng phim lớn như Disney, Pixar hoàn toàn có dư khả năng để tạo ra một chiến dịch PR hoành tráng nhằm “lăng xê” cho các tác phẩm của mình. Song, Beckman vẫn kỳ vọng, chất lượng sẽ là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định để đánh giá một tác phẩm có khả năng giành tượng vàng Oscar, dù cho tác phẩm đó không gây được sự chú ý nhiều như các bom tấn. Danh sách 26 phim hoạt hình cạnh tranh giành suất đề cử chính thức của giải Oscars lần thứ 90 năm 2018 đã được công bố. Qua đó, chúng ta có thể nhận ra nhiều cái tên quen thuộc sở hữu doanh thu phòng vé khổng lồ trong năm. Đứng đầu về mặt doanh thu năm 2017 là Despicable Me 3 của Illumination/Universal với 1 tỷ USD trên toàn cầu. Despicable Me 3 được nhiều người kỳ vọng sẽ tiếp bước Despicable Me 2 (2013), tác phẩm duy nhất của Illumination giành được đề cử Oscar cho hạng mục Phim hoạt hình xuất sắc nhất. Tiếp sau Despicable Me 3 sẽ là những cái tên đình đám khác như The Boss Baby của DreamWorks Animation/Fox (498,9 triệu đô), Cars 3 của Pixar/Disney (382,8 triệu USD), The Lego Batman Movie của Warner Bros. (312 triệu đô). Tuy nhiên, bom tấn “nặng ký” nhất trong danh sách này phải nhắc đến Coco của Pixar. Bộ phim được đánh giá cao cả về chất lượng nội dung, kỹ xảo lẫn kinh phí đầu tư và độ ăn khách này một lần nữa khẳng định sức mạnh của hãng Pixar trong mảng làm phim hoạt hình. Ra mắt vào ngày 22/11, đề tài tình thân cùng niềm đam mê trong Coco đã chiếm lĩnh toàn bộ phòng vé trên toàn cầu và thu về đến 488,5 triệu USD tính đến nay. Mới nhất, Coco đã giành được giải quả cầu vàng cho hạng mục Phim hoạt hình xuất sắc, tạo tiền đề khá tốt cho Oscars 2018. Trong khi đó, ở đầu kia chiến tuyến, những bộ phim hoạt hình độc lập của GKIDS cũng góp mặt, nổi bật nhất là The Breadwinner do Nora Twomey của hãng phim Cartoon Saloo. Sức hút đáng chú ý của tác phẩm này có thể kể đến vai trò giám đốc sản xuất của nữ diễn viên nổi tiếng Angelina Jolie. The Breadwinner cũng từng đoạt giải Grand Prize và Audience Award vào 10/2017 tại Liên hoan phim Animation is Film mới được khởi xướng tại Hollywood. Ngoài The Breadwinner, GKIDS còn sở hữu nhiều tác phẩm đặc sắc khác tại Oscars 2018 như The Girl Without Hands, Mary and the Witch’s Flowe, Birdboy: The Forgotten Children. Cuộc đua giành tượng vàng Oscars cho hạng mục Phim hoạt hình xuất sắc nhất năm 2018 sẽ có nhiều biến động sau thay đổi trong cơ cấu của Ủy ban đề cử. Danh sách Top 5 bộ phim hoạt hình xuất sắc nhất Oscar 90 sẽ sớm được Viện Hàn lâm công bố trong thời gian tới. >>> Có thể bạn muốn xem: Toàn cảnh Oscar lần thứ

Phim hoạt hình hay The Dam Keeper 13

Poster của phim The Dam Keeper. Nguồn: imdb.com The Dam Keeper là bộ phim hoạt hình ngắn với thời lượng 18 phút được sản xuất bởi hai đạo diễn Robert Kondo và Dice Tsutsumi, đồng thời cũng là biên kịch của phim. The Dam Keeper được thực hiện tại Tonko House LLC, được ra mắt chính thức lần đầu tiên tại Liên hoan phim quốc tế Berlin vào ngày 11/2/2014 và công chiếu tại Mỹ vào ngày 14/3 cùng năm tại Liên hoan phim trẻ em quốc tế New York. Bộ phim với cốt truyện dễ thương và cảm động đã nhanh chóng làm tan chảy trái tim mỗi người xem và nghiễm nhiên được lọt vào danh sách đề cử Phim hoạt hình ngắn hay nhất của giải thưởng Oscar lần thứ 87, năm 2015. Nội dung của The Dam Keeper kể về chú lợn con sống cô đơn một mình trong một cối xay gió lớn và có nhiệm vụ bảo vệ thị trân nơi cậu sinh sống khỏi đám sương mù đen nguy hiểm. Ngày qua ngày, cậu luôn phải thức dậy sớm và đúng theo giờ quy định để điều khiển cối xay rồi mới được đi học vì thế người chú heo bé nhỏ lúc nào cũng lấm lem bụi đất. Bạn bè trong trường không ai chơi với cậu, tất cả bọn họ đều tìm cách bắt nạt chú heo nhỏ tội nghiệp cho tới khi cậu gặp bạn cáo – học sinh mới chuyển vào lớp và lúc nào cũng cắm cúi vẽ hí hoáy trong cuốn sổ bí mật. Chú heo con hạnh phúc vì cuối cùng đã có người bạn thân nhưng không may xảy ra sự hiểu nhầm giữa hai người khiến cậu đau đớn vì bị người bạn mới lừa dối. Nỗi đau khổ khiến nhân vật heo con chán nản và bỏ bê luôn công việc quan trọng của mình, làm cho đám sương mù tấn công cả dân làng, khắp nơi đều là tiếng khóc và tiếng la hét sợ hãi. Thật may mắn, heo con nhận ra được mình đã hiểu lầm bạn cáo vì thế cậu đã quyết định dùng hết sức của mình, dũng cảm đi cứu lấy bạn bè cùng thị trấn bằng cách đi đến cối xay gió và thổi đám sương độc ác bay đi. Một câu chuyện nhân văn tươi đẹp, giàu ý nghĩa cùng với hình ảnh nhân vật dễ thương và được tô điểm bằng những màu sắc rực rỡ. Một điều đáng kinh ngạc là bộ phim được làm từ hơn 8.000 bức tranh của các họa sĩ tài năng hợp tác với hai đạo diễn Robert Kondo và Dice Tsutsumi. The Dam Keeper là sự kết hợp với lối vẽ tay truyền thống với những nét cọ màu sắc tươi sáng mang đến cho người xem phong cách hoạt họa đặc trưng điển hình như những tác phẩm trước đây của bộ đôi Kondo và Tsutsumi. (Cả hai người từng là họa sĩ cho các bộ phim hoạt hình nổi tiếng được rất nhiều người biết đến như Ice Age, Ratatouille, Monsters University và Toy Story 3). Ngoài ra bộ phim được thực hiện qua việc dựng những bức tượng nhân vật bằng đất sét để cho ra những thước phim thêm sống động. Dưới đây là một vài hình ảnh về quá trình làm phim hoạt hình The Dam Keeper được Comic Media Academy sưu tầm từ trang website chính thức của bộ phim: thedamkeeper.com. Những ảnh phác thảo ban đầu của nhân vật chính – Chú heo con dũng cảm Mọi nhân vật đều được nặn bằng đất sét tỉ mỉ Cối xay gió – nơi chú heo con sinh sống và bảo vệ thị trấn Chiếc xe buýt mà chú heo bé nhỏ dùng để đi học Hình ảnh đoàn làm phim The Damn Keeper Trailer chính thức của The Dam Keeper được đăng trên kênh The Dam Keeper tại website Youtube The Dam Keeper: Official Trailer #1 The Dam Keeper: Official Trailer #2 Ngoài ra, trong kênh của Tonko House trên trang Youtube có chia sẻ rất nhiều những đoạn video ngắn về quá trình thực hiện từng khâu trong phim có thể giúp ích rất nhiều cho các bạn học viên tại Comic Media Academy và những bạn có đam mê mãnh liệt trong giới làm phim hoạt hình. Making of The Dam Keeper Short Making Of “PIG: The Dam Keeper Poems” #1– Tonko House’s New Series by Erick Oh Making Of “PIG: The Dam Keeper Poems” #2 — Tonko House’s New Series by Erick Oh >>> Tìm hiểu thêm: Khóa học làm phim hoạt hình 3D chuyên nghiệp Phạm Hoàng Ngọc dịch và tổng hợp

Phim hoạt hình hay The Bigger Picture film poster

Nguồn: filmschoolradio.com Ngoài những bộ phim được thực hiện công phu bằng kỹ thuật làm phim hoạt hình 3D tiên tiến được sản xuất với số lượng nhiều như ngày nay. Chắc hẳn người xem sẽ nhớ nhung về những thước phim hoạt hình được vẽ tay 2D tỉ mỉ ngày xưa đã từng một thời thịnh hành trong giới làm phim hoạt hình. Bộ phim hoạt hình The Bigger Picture chính là một kết hợp táo bạo, hoàn hảo giữa việc vẽ tranh 2D trên tường cùng mô hình giấy để tạo ra những đoạn phim 3D thú vị, ngoài ra điểm đặc biệt của bộ phim là được làm theo dạng hoạt hình tĩnh vật (stop-motion) – một cách làm phim đang khá ưa chuộng hiện nay. The Bigger Picture được sản xuất bởi National Film and Television School (NFTS), dưới sự thực hiện của nữ đạo diễn Daisy Jacobs, cô cũng là biên kịch của bộ phim này cùng với Jennifer Majka. The Bigger Picture được phát hành vào ngày 21/5/2014 tại Pháp và phát hành tại Mỹ vào ngày 11/10/2014 tại sự kiện Hamptons International Film Festival. Bộ phim đã chiến thắng giải thưởng Best British Short Animation tại lễ trao giải lần thứ 68 của British Academy Film Awards và lập tức lọt vào vị trí đề cử cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) của giải thưởng Oscar lần thứ 87, năm 2015. Phim hoạt hình The Bigger Picture có độ dài tám phút được đạo diễn Daisy Jacobs sử dụng hình ảnh nhân vật cao hai mét để diễn tả câu chuyện mang hơi hướng hài kịch đen (Dark humor) trào phúng kể về mâu thuẫn gay gắt cùng sự ghen tỵ giữa hai anh em Richard và Nick trong việc chăm sóc người mẹ già yếu sắp mất của họ. Người anh tên Nick thì may mắn và thành đạt, anh ta và luôn được mẹ dành nhiều yêu thương hơn người em dù Nick ít quan tâm đến bà và lâu lâu mới quay về gia đình thăm người thân. Ngược lại hoàn toàn với Nick là người em trai tên Richard – cũng là nhân vật chính của The Bigger Picture. Chính vì sự thương yêu không công bằng của người mẹ dành cho anh mình đã làm dấy lên sự khó chịu trong lòng của Richard. Khi bản thân anh đã dành hết thời gian để chăm sóc cho người mẹ ốm yếu của mình nhưng lại không được bà quan tâm bằng anh trai. Nữ đạo diễn trẻ Daisy Jacobs đã chia sẻ về lý do tại sao cô chọn đề tài nhạy cảm này để thực hiện bộ phim như sau: “Tôi nghĩ The Bigger Picture đã gợi lên điều quan trọng về cách chúng ta chăm sóc cha mẹ của mình khi bản thân chúng ta lớn lên. Theo tôi, mọi người có rất nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này, nhưng tôi nghĩ đây là điều cần phải nói lên thông qua bộ phim.” Nữ đạo diễn Daisy Jacobs và đồng nghiệp Chris Wilder. Nguồn: art-vibes.com Bộ phim gây sự thích thú cho người xem qua phương pháp làm phim hoạt hình độc đáo với sự kết hợp tuyệt vời giữa nghệ thuật vẽ tranh 2D ghép với mô hình giấy và 3D (tên tiếng anh gọi là 3D Stop Motion Animation). Dưới đây là một vài hình ảnh được Comic Media Academy sưu tầm sẽ cho chúng ta thấy sự kỳ công của đoàn làm phim khi thực hiện The Bigger Picture. Quang cảnh khi cả đoàn đang thực hiện bộ phim. Nguồn: art-vibes.com & animamundi.com.br Những nhân vật đều được vẽ tay và gắn những mô hình giấy. Nguồn: thisiscolossal.com Với việc kết hợp như vậy sẽ cho ra những thước phim sống động nghệ thuật Comic Media Academy chia sẻ đến bạn đọc đoạn phim đầy đủ được đoàn làm phim đăng công khai trên kênh Vimeo của đạo diễn Daisy Jacobs cùng với đoạn phim The Bigger Picture. The Bigger Picture TRIK SHOW: Making Of Daisy Jacobs The Bigger Picture >>> Tìm hiểu thêm: Khóa học làm phim hoạt hình 2D – 2D Animation Artist Phạm Hoàng Ngọc dịch và tổng hợp

Phim hoạt hình hay Me and My Moulton 2

Poster của bộ phim. Nguồn: filmaffinity.com Me and My Moulton là phim hoạt hình ngắn dí dỏm và hài hước nhưng đầy sự xúc động của Torill Kove nữ đạo diễn, biên kịch người Canada và Na Uy. Me and My Moulton được sản xuất bởi Mikrofilm hợp tác cùng National Film Board of Canada. Bộ phim ra mắt lần đầu tiên tại sự kiện Toronto International Film Festival vào tháng 9/2014 và tại Na Uy vào ngày 3/12/2014. Với độ dài 14 phút, Me and My Moulton kể về mùa hè những năm giữa thập niên 60 tại Na Uy. Một bé gái bảy tuổi hỏi cha mẹ rằng liệu cô và hai chị em của mình có thể có một chiếc xe đạp như bao bạn cùng lứa hay không. Me and My Moulton dưới cách nhìn của nhân vật cô bé sẽ cung cấp cho người xem cái nhìn thoáng qua về những suy nghĩ của nhân vật chính khi cô bé hoc phải vật lộn với suy nghĩ bản thân của mình rằng gia đình của cô không giống như những gia đình bình thường khác. Khi quan sát gia đình người bạn thân rồi so sánh với gia đình khác thường của mình, cô nhận ra rằng cha mẹ của mình vẫn yêu thương các con nhưng đôi lúc họ lại quá vô tâm làm cho cô gái nhỏ với tâm tính nhạy cảm lúc nào cũng lo lắng và bối rối về gia đình. Bộ phim như một cuốn tự truyện hài hước được dựa theo những kí ức của nữ đạo diễn Torill Kove về gia đình của mình khi cô còn nhỏ. Me and My Moulton chia sẻ cảm xúc của nữ đạo diễn Kove khi bé chỉ mong muốn được giống như những người bạn gái khác trong khu phố. Nhưng cha mẹ cô vốn là những kiến trúc sư theo phong cách hiện đại nên họ luôn làm những điều rất khác biệt với mọi người, như việc tổ chức lễ mừng sinh nhật cho cô theo phong cách không giống ai. Khi các chị em Kove cầu xin một chiếc xe đạp, cha mẹ của họ đã làm cả ba người ngạc nhiên với một chiếc xe Moulton xuất xứ từ Anh quốc (loại xe đạp với thiết kế khung hình độc đáo và bánh xe nhỏ xíu). >>> Tìm hiểu thêm: Khóa học làm phim hoạt hình 3D chuyên nghiệp Nữ đạo diễn Torill Kove. Nguồn: epkurl.com “Tôi đã có cảm xúc vừa yêu, vừa ghét với chiếc xe đạp đó”, nữ đạo diễn Torill Kove chia sẻ thêm “Tôi nhớ ba chị em tôi đã có những bài tập đi xe tại trường với chiếc xe này nhưng hoàn toàn bất lực! Cả gia đình của tôi đã chia sẻ trong việc sử dụng nó cho đến khi chiếc xe bị mất cắp, điều đó từng khiến tôi cảm thấy rất kỳ lạ, bởi vì ai mà đi ăn cắp một chiếc xe bất thường như vậy chứ?” Bộ phim với màu sắc tươi sáng cùng những kỷ niệm gia đình được diễn tả một cách ấm áp đã vinh dự nhận được vị trí đề cử cho giải thưởng Phim hoạt hình ngắn hay nhất tại lễ trao giải Oscar năm 2015. Trước đó, nữ đạo diễn Torill Kove đã có tác phẩm My Grandmother Ironed the King’s Shirts cũng được đề cử tại hạng mục này tại Oscar năm 2000 và một tác phẩm chiến thắng tại Oscar năm 2007 có tựa là The Danish Poet. Hãy cùng Comic Media Academy ngắm nhìn những tấm hình về các bản vẽ của Me and My Moulton và văn phòng làm việc của đạo diễn Torill Kove tại Mikrofilm. Nơi làm việc của đạo diễn Torill Kove tại Mikrofilm Gia đình của nhân vật chính Me and My Moulton Chiếc xe đạp Moulton của ba chị em. Nguồn: mikrofilm.no & filmaffinity.com Đoạn video của FERNTV phỏng vấn nữ đạo diễn Torill Kove về quá trình làm phim hoạt hình Me and My Moulton tại sự kiện Toronto International Film Festival (TIFF) năm 2014. Ngoài ra, các bạn có thể xem trailer giới thiệu của Me and My Moulton cùng những đoạn phim hoạt hình ngắn khác của nữ đạo diễn tại website chính thức của bộ phim: http://meandmymoulton.com Phạm Hoàng Ngọc dịch & tổng hợp

Poster Feast 2

Nguồn: disneyanimation.com Tại lễ trao giải Oscar lần thứ 87, phim hoạt hình Big Hero 6 của đạo diễn Don Hall, Chris Williams và Roy Conli đã đoạt giải thưởng Phim hoạt hình hay nhất (Best Animated Feature Film). Cũng ngay tại buổi lễ này, Feast – bộ phim hoạt hình ngắn được sản xuất cùng hãng – Walt Disney Animation Studios – đã vinh dự đoạt vị trí cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film). Hãy cùng Comic Media Academy tìm hiểu về bộ phim hoạt hình ngắn về chú chó đáng yêu của chúng ta. Feast được thực hiện bởi đạo diễn Patrick Osborne cùng biên kịch Raymond S. Persi và Nicole Mitchell. Bộ phim được sản xuất bởi Walt Disney Animation Studios, ra mắt lần đầu tiên vào ngày 10/6/2014 tại Annecy International Animated Film Festival và phát hành tại rạp chiếu phim cùng với phim hoạt hình Big Hero 6 vào ngày 7/11/2014 tại Mỹ. Phim hoạt hình ngắn này đã chiến thắng tại hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải Oscar lần thứ 87 trước bốn đối thủ nặng kí. Sau đó Feast tiếp tục ẵm trọn giải thưởng tại 42nd Annie Awards cho vị trí Annie Award for Best Animated Short Subject. Nội dung phim kể về một chú chó con giống Boston (tên tiếng anh là Boston Terrier) lang thang giữa đường phố kiếm ăn tại các bãi rác. Thật may mắn, chú chó con ấy được một chàng trai James tốt bụng cưu mang và được đặt tên là Winston. Sau đó, bộ phim xuyên suốt là những bữa ăn mà người chủ chia sẻ cho chú chó con bé bỏng của mình và cuộc sống đơn giản và hạnh phúc của James và Winston. Nhưng ngày qua ngày, anh chàng đã động lòng trước một cô gái tên Kirby đang làm việc tại một nhà hàng địa phương. Cô thuyết phục James ăn kiêng và khuyên anh cần có lối sống lành mạnh hơn, điều đó khiến cho Winston buồn rầu vì bị bắt ăn những loại rau chú không thích thay cho trứng và thịt ba chỉ như trước đây. Không lâu sau đó, James và Kirby chia tay và anh chàng rơi vào trầm cảm, sống buông thả bản thân và không còn chú trọng ăn uống như trước đây nữa. Nhận ra tinh thần khác thường của chủ, chú chó Winston quyết định tìm Kirby bằng việc dựa theo mùi ngò tây mà ngày trước được cô cho ăn và dắt James tới gặp cô gái. Nhờ chú chó bé nhỏ tinh khôn, cả hai đã làm hòa và kết hôn ngay sau đó. Ý tưởng hình thành bộ phim Feast đáng yêu này từ đâu ? Patrick Osborne chia sẻ về ý tưởng cho bộ phim hoạt hình ngắn Feast bắt đầu từ một ứng dụng có tên là 1secondeveryday, ứng dụng này cho phép người dùng ghi lại đoạn phim dài một giây cho mỗi ngày và chế tác những đoạn phim nhỏ đó thành một bộ phim. Osborne đã sử dụng chúng để tạo ra một đoạn phim ăn tối vào năm 2012, nhờ đó ông bật ra suy nghĩ có thể dựa vào ý tưởng này để thực hiện một bộ phim hoạt hình ngắn thú vị. Đạo diễn Patrick Osborne. Nguồn: wikimedia.org Feast được thực hiện qua hệ thống Meander, từng phát triển cho phim hoạt hình ngắn Paperman. Ngoài ra, phim còn được sử dụng Hyperion, hệ thống dựng hình được xây dựng cho bộ phim hoạt hình Big Hero 6. Nhân vật và bối cảnh trong phim được vẽ bằng những đường nét tự do, kết hợp với những khối màu sắc rực rỡ. Bộ phim bao gồm những phân cảnh ngắn được ghép lại với nhau và máy quay chủ yếu tập trung vào nhân vật chú chó Winston cùng đồ ăn của chú làm điểm trọng tâm cho câu chuyện. Dưới đây là những hình ảnh mà Comic Media Academy sưu tầm được về quá trinh tạo dựng bộ phim Feast trong đoạn clip Making of Disney Feast Ảnh phác thảo về chú chó Winston và hai vị chủ nhân. Nguồn: cgmeetup.net Ngoài ra, người xem có thể tham khảo thêm hai đoạn phim dưới đây do đoàn làm phim Feast cung cấp, sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về quá trình làm phim hoạt hình của ekip cũng như nghe lời chia sẻ cảm nghĩ của đạo diễn Patrick Osborne. Design Night: Art in motion, talk by Patrick Osborne Making of Disney Feast Trailer của phim Feast Phạm Hoàng Ngọc Dịch và Tổng hợp

A Single Life 2

Nguồn: imdb.com A Single Life là một phim hoạt hình ngắn của 3 đạo diễn đến từ Hà Lan Marieke Blaauw, Joris Oprins và Job Roggeveen. Bộ phim được viết bởi biên kịch Marieke Blaauw và được sản xuất bởi studio hoạt hình Job, Joris & Marieke. A Single Life được ra mắt vào tháng 9/2014 tại Hà Lan và xuất hiện trong danh sách đề cử cho vị trí Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại Lễ trao giải Oscars 2015 (87th Academy Awards). Bộ phim có độ dài 3 phút ngắn ngủi kể về một cô gái trẻ tên Pia, người đã nhận được một chiếc đĩa nhạc bí ẩn có thể xoay chuyển thời gian, giúp cô có thể đi qua từ thời gian này đến thời gian khác trong cuộc đời của mình. Điều đặc biệt là bộ phim không có bất cứ đoạn đối thoại nào mặc dù xuyên suốt bộ phim vang lên bài hát chủ đề “A Single Life” của Happy Camper với Pien Feith. Marieke Blaauw, Joris Oprins và Job Roggeveen đã sử dụng Cinema 4D và After Effects làm công cụ chính của họ khi làm phim hoạt hình A Single Life. Nhóm ba người đã khéo léo cho người xem thấy Pia từ trẻ hóa sang một phụ nữ lớn tuổi rồi ngược lại. Bộ phim ban đầu được làm ra cho Ultrakort, một dự án của Quỹ điện ảnh tại Hà Lan và Rạp chiếu phim Pathé nhằm quảng bá cho bộ phim hoạt hình ngắn khác. Song, bộ phim đã thu hút hơn một triệu người ở đây và tiếp tục được chiếu tại các liên hoan phim trên toàn thế giới. Phải mất 3 tháng để cả 3 đạo diễn hoàn thiện bộ phim A Single Life toàn vẹn. Theo lời tâm sự của họ, thử thách lớn nhất khi làm bộ phim này là làm cách nào để chứng minh cho người xem thấy được Pia già đi qua 5 giai đoạn của cuộc đời trong một khoảng thời gian rất ngắn. Bởi vì khi Pia thay đổi, vóc dáng người và mái tóc cùng quần áo của cô cũng phải thay đổi theo thời gian. Bản vẽ phác thảo cho A Single Life. Nguồn: sohosoho.tv Thay vì tạo ra một bảng phân cảnh hoặc động tác chi tiết, nhóm nghiên cứu quyết định ước tính khoảng thời gian của mỗi cảnh và viết mô tả về cảnh quay trên một dòng thời gian được tạo ra trong After Effects. Oprins giải thích: “Dòng thời gian trong After Effects là nơi chúng tôi thêm thắt đoạn phim cho đến khi bộ phim kết thúc.” Nguồn: studiodaily.com “Chúng tôi đã liên tục điều chỉnh các vị trí của máy ảnh và chỉnh sửa trong khi cả ba đang làm các hoạt động cho các cảnh, điều đó giúp công việc hoàn thiện rất tốt bằng cách sử dụng các công cụ thời gian trực quan của Cinema.” Để làm phim trong khung thời gian hiệu quả hơn, nhóm đã sử dụng xRefs (external reference files), ngoài ra còn sử dụng thêm công cụ placeholder. Các đạo diễn Marieke Blaauw, Joris Oprins và Job Roggeveen. Nguồn: sohosoho.tv Oprins chia sẻ thêm: “Điều này hoàn toàn mới mẻ với cả ba chúng tôi và phải mất một khoảng thời gian để làm quen, nhưng chúng tôi thực sự hạnh phúc với kết quả đạt được.” Dưới đây Comic Media Academy chia sẻ cho bạn đọc đoạn video phỏng vấn Job, Joris & Marieke về ba bộ phim của họ gồm A Single Life, MUTE và [Otto] được đăng trên kênh tạp chí hoạt hình Skwigly tại Youtube. Trailer của bộ phim A Single Life Phạm Hoàng Ngọc Dịch và Tổng hợp

Phim hoạt hình Head Over Heels 7

Nguồn: vimeocdn.com Head over Heels là bộ phim hoạt hình ngắn do đạo diễn, biên kịch phim người Anh, Timothy Reckart thực hiện vào năm 2012. Bộ phim được làm theo dạng stop motion với thời lượng 10 phút được sản xuất bởi Fodhla Cronin O’Reilly, khâu hoạt hình gồm hai người là Timothy Reckart và Sam Turner. National Film and Television School (NFTS) phát hành bộ phim vào ngày 24 tháng 5 năm 2012 tại Pháp. Head over Heels đã giành được giải Annie Award cho hạng mục Best Student film, sau đó đạt được Best European Animated Short tại lễ trao giải Cartoon d’Or. Không dừng tại đó, bộ phim đã có tên trong năm ứng cử viên sáng giá cho vị trí Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải Oscar tổ chức năm 2013. Sau khi được đề cử Oscar, bộ phim được phát hành cùng với mười lăm bộ phim ngắn khác cũng được đề cử tại giải, tại các rạp chiếu phim của ShortsHD. Vào tháng 3/2015, bộ phim đã được đăng trực tuyến đầy đủ tại Head over Heels TV.  Nội dung của Head over Heels rất thú vị, kể về đôi vợ chồng già Walter và Madge sau nhiều năm chung sống với nhau, họ đã quyết định tách riêng ra: Người chồng thì ngủ và sinh sống dưới sàn nhà, người vợ thì sống trên trần nhà. Khi Walter cố thuyết phục bạn đời của mình, sự cân bằng của họ đã tan biến. Ý tưởng về bộ phim là một sự đúc kết từ rất nhiều ý tưởng khác của Timothy Reckart, những điều mà anh nghĩ sẽ khiến cho bộ phim trở nên tuyệt vời hơn. Một câu chuyện về hai người nhìn thế giới một cách khác nhau nhưng họ vẫn phải tìm cách để sống với nhau. Đây là một cảm hứng có thể áp dụng cho bất kỳ sự bất đồng ý kiến ​​về chính trị, tôn giáo. Đạo diễn nhận định đây là một phép ẩn dụ tuyệt vời cho điều đó, không chỉ riêng về hôn nhân. Đạo diễn Timothy Reckart cùng đội ngũ làm phim. Nguồn: facebook.com/HeadOverHeelsFilm Đạo diễn Timothy Reckart cũng chia sẻ về quá trình làm phim Head over Heels. Anh kể bước đầu tiên là tập trung vào phác thảo, làm sao để dẫn đến kết thúc một cách rõ ràng, hợp lý. “Sau đó chúng tôi dành phần lớn thời gian tạo bảng phân cảnh và animatic, đây là quá trình rất dài. Tôi nghĩ rằng tầm khoảng bốn tháng để làm xong. Tuy không lâu lắm, nhưng bạn biết đấy, bộ phim này chỉ có mười phút. Chúng tôi đã trải qua một số bản nháp, chỉ cần liên tục rút gọn bớt nội dung, cố gắng làm cho nó càng ngắn càng tốt. Điều khó khăn khác là làm thế nào để kể câu chuyện mà không cần sử dụng bất cứ cuộc đối thoại nào.” Nguồn: facebook.com/HeadOverHeelsFilm Anh tâm sự thêm rằng mình đã dành 06 tháng cho việc làm phim hoạt hình, trong đó có năm tháng là bao gồm việc xây dựng bối cảnh và đạo cụ để chụp. Khi cả nhóm hoàn thành xong căn phòng và nhân vật, họ sẽ đưa nó vào phòng thu và bắt đầu lấy ảnh. Vì thế, cả bộ phim kéo dài từ tháng 7-12/2012. Nguồn: facebook.com/HeadOverHeelsFilm Dưới đây là hai đoạn clip được phía đoàn làm phim Head over Heels cung cấp sẽ giúp các bạn học viên cùng bạn đọc hiểu thêm về quá trình thực hiện bộ phim đáng yêu này. HOH Timelapse: Animating a shot HOH Timelapse: Breaking down and setting up Phạm Hoàng Ngọc dịch và tổng hợp

Fresh Guacamole Phim hoạt hình ngắn nhất được đề cử Oscar 4

Poster phim. Nguồn: pesfilm.com Fresh Guacamole là bộ phim hoạt hình ngắn năm 2012 do PES (tên thật là Adam Pesapane) làm đạo diễn kiêm biên kịch, sản xuất bởi PES Productions và Showtime hợp tác cùng ShortsHD phát hành. Ra mắt vào ngày 2/3/2012 tại Mỹ, Fresh Guacamole đã được đề cử giải thưởng Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) của lễ trao giải Oscar lần thứ 85 diễn ra vào năm 2013. Với thời lượng vỏn vẹn 1 phút 40 giây, đây là bộ phim hoạt hình ngắn nhất từng được đề cử cho giải Oscar. Nguồn: pesfilm.com Những bộ phim của PES chủ yếu là theo hình thức 2D và Stop-Motion và luôn là chủ đề về cuộc sống xung quanh con người. Nhưng những sản phẩm do anh làm ra luôn đầy tính sáng tạo đến mức bất ngờ, hài hước, súc tích và suy tư. Điển hình như Fresh Guacamole với nội dung rất gần gũi: Sử dụng các vật dụng kỳ lạ làm món bơ dầm. Trong khi, phần nội dung nghe có vẻ đơn giản nhưng việc PES sử dụng kỹ thuật pixilation để mô tả một người đàn ông làm món bơ dầm từ các thành phần bất thường, mà mỗi khi cắt lại trở thành một thứ khác khiến cho khán giả không khỏi thích thú, bị lôi cuốn với sự sáng tạo độc đáo của PES. Đó là lý do tại sao Fresh Guacamole chỉ cần 4 ngày để đạt 3,5 triệu lượt view trên Youtube và đến nay đã là 54 triệu lượt.  Trong cuộc phỏng vấn với ANIMATIONWorld, PES đã nói về nét riêng trong Fresh Guacamole và các phim khác của anh: “Các phim của tôi không nhất thiết đi theo cảm xúc con người, sự phát triển nhân vật hay diễn biến tâm lý. Mà vẫn dựa trên ý tưởng là chính. Người ta đi xem phim truyện để được dấn thân vào một trải nghiệm, một hành trình, đi theo một nhân vật. Nhưng triết lý riêng của tôi là người ta cũng muốn xem một thứ gì khác ngắn hơn. Người ta có thể cảm thấy đầy lý thú và thỏa mãn từ một thứ ngắn và có thể xem đi xem lại mà vẫn thấy chiều sâu.” Đạo diễn PES. Nguồn: media.salon.com Ngoài ra, anh còn chia sẻ thêm: “Theo quan niệm của tôi, phim ngắn còn mạnh mẽ hơn vì nếu ta có thể làm ra một thứ gì đó mà người khác muốn xem đi xem lại hàng chục lần thì nó đã cho phép ta kết nối. Khán giả thường phản ứng tốt với các dạng phim ngắn vì phim quảng cáo đã thành công 50 năm nay. Não của chúng ta đã bắt nhịp được với lối kể chuyện cô đọng cao độ này.” Theo PES, ý tưởng thực hiện Fresh Guacamole đến bất chợt vào một ngày anh ta đi bộ và ghé vào cửa hàng thực phẩm. Tại đây, PES thấy một đống bơ và tưởng tượng về việc lấy thử một trái và ném nó vào khắp nơi trong cửa hàng. Từ đó, ý tưởng về lựu đạn bơ đã ra đời và được PES sử dụng vào bộ phim này. Tuy nhiên, để có thể khiến bộ phim giống như một câu đố, làm khán giả phải kết nối, xác định đối tượng thông qua các phương tiện khác nhau và mường tượng ra thật không dễ dàng. PES cũng thừa nhận làm các bộ phim về nấu ăn mà sáng tạo ra nguyên liệu một cách “đặc biệt” đôi khi cũng là thử thách lớn. Nguồn: pesfilm.com PES chia sẻ thêm: “Tôi đã từng sử dụng công cụ LunchBox nhưng bây giờ tôi chuyển sang Dragon. Công cụ mới này không phải không có nhiều lỗi phiền phức nhưng nó vẫn mang đến lợi ích cho tôi. Vì vậy, tôi thiết lập công cụ Dragon rồi dùng máy ảnh kỹ thuật số để chụp ảnh tĩnh. Chỉnh sửa trong Final Cut và thiết kế âm thanh trên đó luôn, sau đó tôi kết hợp cả hai vào. Đó chính là cách tôi đã tạo ra bộ phim. Thêm chút chỉnh sửa trên Photoshop và chúng tôi hoàn tất mọi công đoạn.” Comic Media Academy chia sẻ đến bạn đọc và các bạn học viên đoạn phim đầy đủ của Fresh Guacamole được chính PES đăng công khai trên trang PESfilm Tại Youtube. Phạm Hoàng Ngọc dịch và tổng hợp (Bài viết có sử dụng dữ liệu từ Howfilmschool)

Poster phim. Nguồn: imdb.com Trailer: Phim hoạt hình Day & Night (Ngày & Đêm) có thời lượng 6 phút do hãng Pixar Animation Studios hợp tác với Walt Disney Pictures sản xuất. Tác phẩm được thực hiện bởi đạo diễn Teddy Newton – kiêm vị trí viết kịch bản – và nhà sản xuất Kevin Reher. Bộ phim được ra mắt tại rạp cùng với Toy Story 3 vào ngày 18 tháng 6 năm 2010. Ngoài ra, Day & Night đã được phát hành qua  iTunes tại Mỹ. Năm 2011, bộ phim đã được đề cử cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải danh giá Oscar, nhưng đã không đủ may mắn để nhận giải thưởng này. Nội dung bộ phim kể về hai con người tượng trưng cho Ngày và Đêm gặp nhau. Đêm là một chàng trai có tính tình tăm tối và nóng nảy còn Ngày thì trái ngược lại, sáng sủa và yêu đời. Ban đầu, cả hai cảm thấy sợ hãi và nghi ngờ lẫn nhau nhưng nhanh chóng họ nhận ra sự khác biệt của bản thân là điều tự nhiên. Ngày và Đêm thích thú và khám phá những phẩm chất độc đáo của nhau rồi nhận ra rằng mỗi người trong họ mở ra một cửa sổ khác biệt để bước vào cùng một thế giới, đó là tình bạn. Và tình bạn sẽ giúp cho cả hai đạt đến một viễn cảnh mới mà cả hai chưa từng biết. Góc quay Camera trong phim. Nguồn: Disney/Pixar Điều đặc biệt ở Day & Night là không giống như hầu hết các sản phẩm hoạt hình ngắn khác của Pixar, bộ phim là sự kết hợp giữa phong cách hoạt hình 2D và kỹ thuật 3D tiên tiến. Theo Don Shank – giữ chức vụ bộ phận thiết kế sản xuất của phim hoạt hình nổi tiếng Up – cho rằng “Tác phẩm này không giống như bất cứ điều gì Pixar đã sản xuất trước đây.” Đây cũng là bộ phim hoạt hình ngắn thứ hai của hãng Pixar được làm dưới dạng hoạt hình 2D, sau bộ phim đầu tiên là Your Friend the Rat. Nguồn: Making of Day & Night Quá trình thực hiện phim hoạt hình Day & Night là tư liệu quý giá cho các bạn yêu thích học vẽ hoặc làm phim hoạt hình. Các phác thảo của cả hai nhân vật đều được vẽ bằng tay, sau đó được quét vào máy tính và được xử lý bằng công nghệ CGI. Trong khi đó, các cảnh bên trong của hai nhân vật được thực hiện bằng công nghệ 3D. Ngoài ra, việc sử dụng kỹ thuật này cho phép các nhân vật 2D diễn xuất trên khung cảnh nền định dạng 3D. Vì thế, trong quá trình làm việc sẽ chia làm hai nhóm khác nhau, bao gồm: một nhóm vẽ tay làm việc trên bàn, một nhóm khác thì làm việc qua máy tính. Cả hai đội đều phải quan sát kỹ lưỡng công việc của đối phương để có thể hợp nhất hai bản vẽ vào phim một cách hài hòa. “Việc thực hiện thật là khó khăn, nhưng tôi thích nó!” – Sandra Karpman (nhân viên ghi hình stereo) chia sẻ về quá trình làm Day & Night. Từ bản vẽ tay đến nhân vật hoàn chỉnh. Nguồn: Making of Day & Night Đạo diễn của Day & Night chia sẻ rằng giọng nói được sử dụng trong phim hoạt hình ngắn này là của Tiến sĩ Wayne Dyer và được lấy từ một bài giảng của ông vào năm 1970. Teddy Newton quyết định lấy lời thoại từ bài thuyết trình của Wayne Dyer để cho người xem thấy rằng một điều bản thân chưa biết có thể chứa đựng một bí mật đẹp đẽ, và không cần phải sợ hãi khi khám phá ra nó. Ý tưởng này đã gây tiếng vang bởi một bài phát biểu tương tự của Albert Einstein: “Điều tuyệt vời nhất chúng ta có thể trải nghiệm là sự bí ẩn.” Cuối cùng, Comic Media Academy chia sẻ đến học viên và các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D & 3D đoạn clip Making of Day & Night. Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp)

Poster phim. Nguồn: online-freebee.ru The Lost Thing là một cuốn sách tranh được viết và minh hoạ bởi Shaun Tan. Tác phẩm đã được chuyển thể thành phim hoạt hình ngắn cùng tên có độ dài 15 phút, được thực hiện bởi hai đạo diễn Shaun Tan và Andrew Ruhemann. The Lost Thing được sản xuất bởi nhà sản xuất Sophie Byrne hợp tác với Passion Pictures, ra mắt vào ngày 3 tháng 6 năm 2010 tại Australia. Bộ phim đã đoạt giải thưởng hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải danh giá Oscar năm 2011. The Lost Thing có bối cảnh diễn ra tại một thế giới mà mọi người luôn tất bật công việc, để rồi những con người đó vô tình đánh rơi những thứ quý giá mà bản thân không hay biết. Cho dù biết mình đánh rơi, con người sống trong thế giới ấy quá bận rộn để đi tìm lại những điều đó. Vô tình, những giá trị thực sự cứ mất dần đi. Tuy nhiên giữa dòng người vô cảm tấp nập, có một chàng thanh niên vẫn hăng say tìm lại những món đồ bị vứt bỏ và truy lùng nguồn gốc của chúng. Một ngày, anh chàng tìm thấy một sinh vật kỳ lạ trên bãi biển, sau đó anh ta quyết định tìm cho sinh vật tội nghiệp ấy một căn nhà trú thân. Đội ngũ làm phim ngoài hai đạo diễn Shaun Tan và Andrew Ruhemann, còn có Tom Bryant – thực hiện mảng CGI và phụ trách sản xuất cùng với biên tập Leo Baker. Tuy bộ phim đã được phát triển trong một vài năm, nhưng đã mất ba năm để hoàn thành trong khoảng thời gian 2007 – 2010. “Bộ phim của chúng tôi mất quá nhiều thời gian để hoàn thành.” – Đạo diễn Shaun Tan chia sẻ. Đạo diễn Shaun Tan Nguồn: education.burnsfilmcenter.org Anh cũng cho biết bản thân đã tham gia khá nhiều trong việc viết kịch bản, thiết kế đồ họa, thiết kế mọi vật trong phim và vẽ tay tất cả các họa tiết – những họa tiết này sẽ được Tom Bryant làm theo định dạng 3D. Shaun Tan cũng đã sản xuất các bản nhạc thô và làm việc với nhà làm phim Leo Baker để hoàn thiện bố cục cảnh và hình ảnh động cũng như giải quyết các vấn đề sẽ xảy ra trong quá trình thực hiện The Lost Thing. “Tôi không được huấn luyện về mặt kỹ thuật, nhưng tôi có thể nghiên cứu trước thông qua các phác thảo bút chì và phấn màu. Tôi thường chụp màn hình làm việc, in ra và vẽ lên trên nó để tìm hiểu xem bản vẽ còn có thể được cải thiện thêm như thế nào.” – Shaun Tan cho biết. Một số hình ảnh quá trình thực hiện tác phẩm cực kỳ hữu ích cho các bạn yêu thích học vẽ và làm phim hoạt hình. Nguồn: acmi.net.au / shauntan.net Bộ phim đã gây ấn tượng cho người xem với nét vẽ khác lạ, đôi lúc kì quái. Những nhân vật trong phim được thiết kế với khuôn mặt chảy dài, đôi mắt vô hồn lúc nào cũng nhìn xuống, miệng họ thì không bao giờ cười – những điều đó tạo ra một xã hội sống vô cảm và không yêu thương. Ngoài con người, những sinh vật khác sống tại đây được cấu tạo từ con vật với máy móc, một ý tưởng kỳ lạ từ nhà thiết kế, đã khiến khán gỉa không khỏi thích thú với sức sáng tạo đặc sắc từ đoàn làm phim. Có thể thấy đội ngũ làm phim đã tạo ra một thành phố trong The Lost Thing mang đầy màu sắc fantasy, có phần siêu thực. Comic Media Academy chia sẻ đến học viên và các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D & 3D hai đoạn clip phỏng vấn đạo diễn Shaun Tan về tác phẩm The Lost Thing. Shaun Tan draws The Lost Thing Shaun Tan: Tell us about ‘The Lost Thing’   Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp)

Poster-phim-hoat-hinh-The-Gruffalo

Poster phim The Gruffalo. Nguồn: imdb.com Trailer: The Gruffalo là phim hoạt hình ngắn hợp tác giữa Anh và Đức, được thực hiện bởi đạo diễn Jakob Schuh và Max Lang. Bộ phim được sản xuất bởi Michael Rose và Martin Pope của Magic Light Pictures kết hợp với Studio Soi. Kịch bản được dựa trên cuốn sách ảnh do Julia Donaldson viết và minh họa bởi Axel Scheffler. The Gruffalo với thời lượng 27 phút được ra mắt vào ngày 25 tháng 12 năm 2009 tại Anh. Vào ngày ra mắt bộ phim, đã có 9,8 triệu người xem tại Anh qua kênh BBC One. Sau đó, The Gruffalo  đã được chiếu ở các rạp ở Mỹ, do Kidtoon Films phân phối. Vào tháng 12 năm 2012, bộ phim và phần tiếp theo có tên là The Gruffalo’s Child và ra mắt trên truyền hình PBS Kids Sprout tại Hoa Kỳ. Năm 2011, The Gruffalo đã có tên trong danh sách năm ứng cử viên sáng giá cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) nhưng rất tiếc rằng bộ phim đã không đủ may mắn để nhận được giải thưởng này. Phim hoạt hình The Gruffalo có nội dung kể về một chú chuột nhỏ vì bị đe dọa bởi con rắn nham hiểm, một con cáo tinh ranh và con cú hung ác nên đã tuyên bố phét rằng cậu có một người bạn tên Gruffalo rất đáng sợ, có thể đánh bại được ba người kia. Mặc dù, chú biết người bạn của mình không hề tồn tại nhưng vì quá sợ hãi nên đành phải nói dối. Vậy liệu xem, chú chuột nhỏ này sẽ làm cách nào để có thể chứng minh sự tồn tại không hề có thật với ba kẻ nguy hiểm vẫn đang rình rập. Bộ phim được làm với công nghệ CGI tiên tiến kết hợp với nghê thuật làm phim Stop-Motion đang được rất nhiều đội ngũ làm phim yêu thích. Đạo diễn Jakob Schuh cho biết, anh chọn công nghệ CGI thay vì hoạt hình 2D vì mong muốn bộ phim không trở thành một sản phẩm mang hình ảnh động từ cuốn sách. Điều đó khiến anh không thỏa mãn và Jakob Schuh mong muốn mang đến cho người xem nhiều thứ hơn nữa. Vì vậy, hoạt hình 3D là phương án tốt nhất. Ban đầu, đạo diễn Jakob Schuh không tính áp dụng stop-motion vào The Gruffalo vì đoàn làm phim có ngân sách giới hạn và khung thời gian làm việc hạn chế, ngoài ra việc chỉ đạo trong CGI dễ dàng hơn nhiều. Nhưng sau thời gian xem xét, anh quyết định gộp thử cả hai CG và stop-motion cùng vào, cả đoàn đã làm một bài kiểm tra nhỏ và nhận ra phương án này là một cách tinh tế để làm tác phẩm The Gruffalo. Một số hình ảnh quá trình thực hiện tác phẩm.  Các bạn yêu thích học vẽ và làm phim có thể tham khảo. Nguồn: awn.com Ngoài ra, đạo diễn chia sẻ rằng lúc đầu cả đoàn đã nghĩ sẽ không cần máy quét 3D cho các cảnh phim, nhưng những phân cảnh được dựng lên quá lớn, lên đến 16,4 feet (khoảng 5m). Do đó máy quét 3D đã được dùng để có được hình ảnh hình học của sàn nhà chính xác, giúp cho đội ngũ có thể đổ bóng trong phim hợp lý hơn. Trong quá trình sản xuất, Jakob Schuh rất hài lòng với nhân viên trong đoàn của mình, anh đã tâm sự vài điều về nghệ sĩ hoạt hình Max Stohr trong bài phỏng vấn với trang ANIMATIONWorld như sau: “Nghệ sĩ hoạt hình Max Stohr, đã làm việc với chúng tôi năm 2007 và đoàn chúng tôi giao trách nhiệm làm sạch các cảnh hoạt họa cho anh ta, tôi thật sự yêu thích cách thức làm việc của anh chàng này. Max Stohr là một nghệ sĩ hoạt hình giỏi giang và sau đó anh ta đã giới thiệu người bạn thân của mình cho chúng tôi, cậu ta tên Toby von Burkersroda. Họ đã trở thành những nhà làm phim hoạt hình hàng đầu trong chương trình. Nhiệm vụ của cả hai về cơ bản là thiết lập tiêu chuẩn cho bộ phim của tôi.” Cuối cùng, Comic Media Academy chia sẻ đến học viên và các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D & 3D hai đoạn phim về quá trình thực hiện The Gruffalo của đoàn làm phim. Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp)

Poster của phim. Nguồn: akatasia.com Trailer: Madagascar, a Journey Diary (có tựa tiếng Pháp là Madagascar, carnet de voyage) là tác phẩm của đạo diễn Bastien Dubois, anh cũng là người viết ra kịch bản cho đứa con của mình. Bộ phim có thời lượng 11 phút được sản xuất bởi Ron Dyens, Aurélia Prévieu và công ty Sacrebleu Productions. Phim hoạt hình Madagascar, a Journey Diary ra mắt ngày 11 tháng 2 năm 2011 tại Hoa Kỳ và được đánh giá cao bởi các chuyên gia trong ngành. Năm 2011 tại lễ trao giải Oscar lần thứ 83, Madagascar, a Journey Diary đã có tên trong danh sách năm ứng cử viên sáng giá cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) nhưng chưa đủ may mắn để nhận được giải thưởng này. Nội dung của Madagascar, a Journey Diary nói về Famadihana – đây là phong tục tang lễ cổ xưa của người dân Malagasy, có ý ngĩa “Sự biến chuyển của người chết”. Một biểu tượng về tầm quan trọng của việc thờ cúng tổ tiên, cũng là cơ hội để di chuyển hài cốt của tổ tiên từ ngôi mộ đầu tiên đến nơi yên nghỉ cuối cùng. Bộ phim được quay như chuyến du lịch của một du khách phương Tây với mong muốn tìm hiểu những phong tục tập quán tại Madagascar. Ý tưởng này được dựa theo những kỷ niệm mười tháng Bastien Dubois sinh sống tại Madagascar vào năm 2006, nhằm tìm kiếm nguồn tài liệu cũng như ý tưởng hình ảnh cho tác phẩm. Thiết kế nhân vật. Nguồn: cartoonbrew.com Hoạt hình ngắn Madagascar, a Journey Diary đã được đạo diễn Bastien Dubois hoàn thành cùng với sự trợ giúp của ba người khác trong vòng hai tháng. Bastien Dubois  cho biết, thay vì viết một kịch bản hoàn chỉnh hoặc vẽ một vài bảng phân cảnh, anh đã bắt đầu bằng việc vẽ ba bức tranh khác nhau và ghi chú cho những nhân vật đó một vài dòng tư liệu về thời gian, kèm theo một số đoạn nhạc được viết phía dưới. Điều đó đã trở thành nền tảng cho bộ phim của Bastien Dubois. “Mỗi khi đi qua Madagascar, tôi trở về căn nhà của tôi ở đây để thêm thắt một vài bức tranh thêm sinh động, dựa theo những kinh nghiệm mới của tôi và dùng nó để cập nhật chỉnh sửa cho bộ phim.Từ từ, tác phẩm được xây dựng dựa theo xung quanh ba bức tranh ban đầu.” – Đạo diễn Bastien Dubois chia sẻ. Lúc đầu, Bastien Dubois tính thực hiện dự án này bằng phong cách 2D nhưng sau một thời gian, anh nhận ra rằng không thể đạt được hiệu quả tốt hơn nếu không dùng CGI. Cuối cùng, Bastien Dubois  quyết định làm Madagascar, a Journey Diary theo kỹ thuật CGI tiên tiến. Ngoài ra, bộ phim này là một thử thách lớn đối với đạo diễn Bastien Dubois về việc chuyển đổi kỹ thuật sản xuất độc đáo và sắp xếp nguồn lao động trong đoàn làm phim hợp lý nhằm thúc đẩy quá trình sản xuất nhanh hơn. Tất nhiên, trong quá trình làm phim cũng xảy ra một vài thử thách, nhất là về tiền bạc. “Tìm kiếm nguồn tài trợ để làm Madagascar là một quá trình dài đầy khó khăn. Nếu không có sự hỗ trợ của câu lạc bộ Rotary, khoản viện trợ 2000 euro cho bộ phim mà họ cho tôi sau vài tuần khi tôi gửi e-mail cho họ, có lẽ tôi đã từ bỏ dự án này. Một khoản trợ cấp nhỏ có thể tạo sự khác biệt đáng kinh ngạc cho một người sáng tạo trẻ tuổi.” – Đạo diễn Bastien Dubois cho biết. Một vài hình ảnh quá trình thực hiện mà các bạn yêu thích học vẽ và làm phim sẽ quan tâm. Nguồn: bastiendubois.com Thành công của phim hoạt hình Madagascar, a Journey Diary đã dẫn đến việc đạo diễn Bastien Dubois thực hiện thêm bộ phim ngắn thứ hai có tên Cargo Cult và một loạt phim truyền hình ngắn khác. Cuối cùng, Comic Media Academy chia sẻ đến học viên và các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D & 3D đoạn phim Making of “Madagascar, a Journey Diary”. Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp)

Nguồn: imdb.com The Longest Daycare với thời lượng 5 phút là một sản phẩm theo định dạng 3D dựa theo chương trình truyền hình hài kịch tình huống hoạt họa nổi tiếng của Hoa Kỳ – The Simpsons (một trong những chương trình được chiếu lâu nhất, bắt đầu từ ngày 17 tháng 12 năm 1989 trên hệ thống truyền hình Fox Network cho đến giờ). Bộ phim hoạt hình ngắn này có kịch bản gốc từ nhà sản xuất lâu đời cho The Simpsons, James L.Brooks và đạo diễn thực hiện là David Silverman. Các công ty sản xuất bộ phim bao gồm: Gracie Films, Film Roman và 20th Century Fox Animation. Ngoài ra, bên phía nhà sản xuất ngoài James L. Brooks còn có bốn thành viên khác gồm: Matt Groening, Al Jean, Richard Raynis, Richard Sakai. Đội ngũ biên kịch gồm sáu người: James L. Brooks, Matt Groening, Al Jean, David Mirkin, Michael Price, Joel H. Cohen. The Longest Daycare được chiếu rạp cùng với Ice Age: Continental Drift, ra mắt vào ngày 13 tháng 7 năm 2012. Ngay sau đó, bộ tiếp nhận được những lời khen tích cực, ca ngợi về nội dung và hình ảnh từ các chuyên gia và khán giả khắp mọi nơi. The Longest Daycare đã có tên trong danh sách năm ứng cử viên đề cử cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải Oscar tổ chức năm 2013, tuy nhiên đã để vuột mất vị trí danh giá cho bộ phim Paperman. Nhân vật chính trong The Longest Daycare là Maggie Simpson, cô bé được mẹ ghi danh vào một cơ sở chăm sóc, ở đấy cô bé Maggie quen biết cậu nhóc dữ dằn tên Gerald – có sở thích hành hạ côn trùng. Vô tình, cô nhóc Maggie bắt gặp được một con sâu bướm và tìm mọi cách giúp chú bướm thoát khỏi cánh tay tàn nhẫn của Gerald. Nội dung bộ phim đầy kịch tính, lôi cuốn sẽ khiến bạn không thể dời mắt được trước hành trình rượt đuổi gay cấn giữa Maggie và cậu nhóc Gerald. Nguồn gốc của The Longest Daycare xuất hiện khi nhà sản xuất James L. Brooks của The Simpsons đề xuất ý tưởng làm một bộ phim ngắn và phát hành nó trong các rạp chiếu phim. Ông muốn bộ phim hoạt hình ngắn về cô bé Maggie này như một món quà từ nhà sản xuất cho các khán giả hâm mộ bộ phim The Simpsons. Al Jean chia sẻ bộ phim này như một lời cảm ơn từ đội ngũ đoàn làm phim với những người hâm mộ chương trình trong suốt 25 năm qua. David Silverman chia sẻ lý do ông thực hiện bộ phim này với định dạng 3D vì theo ý kiến đóng góp của Richard Sakai cùng một vài người khác trong tổ sản xuất, họ muốn thử nghiệm 3D lên bộ phim và muốn nhìn xem The Simpson sẽ như thế nào khi được làm 3D? “Không có lý do cụ thể gì cả, đây chỉ là một kiểu thử nghiệm ý tưởng. Chúng tôi đã thử nó và chúng tôi thích thú với điều này và bộ phim trở nên mới mẻ hơn.” Đạo diễn David Silverman Nguồn: awn.com Đạo diễn cũng chia sẻ thêm về quá trình sản xuất The Longest Daycare: “Giai đoạn sản xuất bộ phim là từ tháng 3 đến tháng 5. Tuy tôi không có có một đội ngũ khổng lồ nhưng có những anh em rất nhiều kinh nghiệm. Điều quan trọng nhất là tôi có một đội ngũ chuyên nghiên cứu về 3D, nhóm đó do Eric Kurland đứng đầu, người đã thực hiện khá nhiều dự án về 3D.” Ông cũng nói rằng không thay đổi hình ảnh mà vẫn giữa nguyên rồi chia ra các bộ phận tách biệt tại phòng thu ở Hàn Quốc. Tùy theo mỗi cảnh mà họ ghép các bộ phận cơ thể cho phù hợp. “Eric nói việc đó đó không cần thiết. Chúng ta có thể thao tác trong After Effects nếu chúng ta muốn tách cụ thể hơn nữa.” – Đạo diễn David Silverman chia sẻ thêm “Tôi đang rất e ngại về thời gian sản xuất của chúng tôi bởi vì bộ phim đã được thực hiện khá nhanh và tôi không muốn mọi người nghĩ rằng, “Ồ, chúng ta chỉ cần loại ra nó” Chúng tôi không muốn nghe thấy điều đó.” Đối với các bạn học viên đang theo học vẽ truyện tranh hay học làm phim hoạt hình, The Simpsons và The Longest Daycare là một trong những tác phẩm hấp dẫn để tìm hiểu thêm về tạo hình, Art-style và cách kể chuyện.   Nguồn: awn.com Comic Media Academy chia sẻ đến học viên các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D & 3D đoạn phim The Longest Daycare đầy đủ được đăng trên Animation on FOX tại Youtube. Xem thêm: Phỏng vấn David Silverman ‘The Simpsons’ về ‘The Longest Daycare’ http://www.hollywoodreporter.com/race/david-silverman-guiding-simpsons-oscars-422067   Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp)

Poster phim. Nguồn: geefwee.com Trailer   Let’s Pollute là hoạt hình ngắn được tạo ra bởi đạo diễn Geefwee Boedoe và nhà sản xuất Joel Bloom. Ngoài ra, bộ phim có kịch bản được viết bởi ba người, gồm: Geefwee Boedoe, Teddy Newton và Tim Crawfurd. Let’s Pollute với thời lượng gần 7 phút được phát hành vào ngày 11 tháng 2 năm 2011 tại Hoa Kỳ. Sau đó, tác phẩm được đề cử cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải Oscar năm 2011. Let’s Pollute là tác phẩm hoạt hình mà các bạn yêu thích học vẽ truyện tranh hay học làm phim hoạt hình nên tìm hiểu. Tác phẩm theo phong cách giáo dục năm 1950, mang màu sắc châm biếm về thế giới hiện nay, khi mà nơi đâu cũng bị ô nhiễm, người dân thì lãng phí trong tiêu dùng. Mặc dù nền kinh tế thì phát triển mạnh mẽ nhưng con người ngày càng bỏ mặc vấn đề thiên nhiên. Let’s Pollute sẽ hướng dẫn bạn trở thành những người gây ô nhiễm tốt hơn cho một ngày mai tươi sáng. Đạo diễn Geefwee Boedoe Nguồn: polpix.sueddeutsche.com Bộ phim hoạt hình Let’s Pollute đã mất hơn ba năm để đoàn làm phim hoàn thành, nơi thực hiện chủ yếu tại nhà riêng của nhà làm phim Geefwee Boedoe. Anh cho biết rất khó khăn để có được sự ủng hộ từ các hãng studio cho một tác phẩm như Let’s Pollute, bởi vì nội dung của nó thể hiện một khía cạnh chính trị nhạy cảm. Vì thế, Geefwee Boedoe đã tự viết kịch bản, trực tiếp đạo diễn, làm các khâu hoạt hình cũng như sản xuất bộ phim với sự giúp đỡ từ Tim Crawfurd. Ngoài ra, anh đã nhận được sự hợp tác với một nhóm nhỏ các tình nguyện viên, bao gồm biên tập viên Torbin Bullock, nhà thiết kế âm thanh Chris Barnett của Skywalker Sound và đồng sản xuất Joel Bloom để hoàn thành dự án. Nguồn: geefwee.com Để tác phẩm phù hợp với phong cách năm 1950, đoàn làm phim đã làm đồ họa hoạt hình linh động và rõ ràng, các họa tiết màu sẫm được sử dụng trong phim để làm nhấn mạnh chủ đề ô nhiễm. Mặc dù đạo diễn Geefwee Boedoe đã cho ra mắt những bộ phim CGI của mình trong suốt bảy năm tại Pixar Animation Studios, nhưng đến khi thực hiện Let’s Pollute, anh đã chọn một chiếc bút chì đen cổ điển cho phần lớn công việc thiết kế tại đây. Geefwee Boedoe đã vẽ các ý tưởng ra giấy và sử dụng chủ yếu mực Ấn Độ để tạo ra các kết cấu trên tấm nhựa – những hiệu ứng trong phim là từ đây mà ra, không phải là các hiệu ứng tổng hợp trên máy tính. Sau khi phác thảo lên giấy, Geefwee Boedoe quét chúng và các tác phẩm nghệ thuật vào máy tính để chỉnh sửa. Ngoài ra, anh đã sử dụng màu nước và các mẫu vải, tô điểm thêm các hình vẽ bằng tay để tạo ra bối cảnh trong Let’s Pollute. Qua cuộc phỏng vấn điện thoại với trang Wired.com, Geefwee Boedoe đã chia sẻ rằng: “Nếu bạn lạm dụng vào các thủ thuật máy tính quá nhiều, bạn sẽ cảm thấy như ‘Ôi, tôi đã từng xem bộ phim này trước đó thì phải?’ ” Cuối cùng, Comic Media Academy đến học viên và các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D & 3D đoạn phỏng vấn đạo diễn Geefwee Boedoe về bộ phim Let’s Pollute. Let’s Pollute animation director Geefwee Boedoe!   Phạm Hoàng Ngọc (dich và tổng hợp)

poster-phim-hoat-hinh-paperman

Poster phim. Nguồn: artofdisney.canalblog.com Trailer Paperman: Paperman là bộ phim hoạt hình ngắn hài hước, lãng mạn, được thực hiện bởi đạo diễn John Kahrs cùng hai biên kịch gồm Clio Chiang, Kendelle Hoyer.  Walt Disney Animation Studios là studio sản xuất bộ phim dưới sự cho phép của nhà sản xuất Kristina Reed và nó được phát hành tại rạp ở Mỹ vào ngày 2 tháng 11 năm 2012 cùng với Wreck-It-Ralph. Paperman là sự pha trộn giữa hoạt hình truyền thống và hoạt hình máy tính, chính sự kết hợp ấy đã giúp bộ phim được đánh giá cao và nhận giải thưởng Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải Oscar lần thứ 85, năm 2013. Ngoài ra bộ phim còn đạt giải Best Animated Short Subject tại buổi lễ lần thứ 40 của Annie Awards. Đây là lần đầu tiên sau 43 năm kể từ chiến thắng của It’s Tough to be a Bird, Disney mới lại giành được giải thưởng ở hạng mục này tại Oscar lần nữa. Nội dung của Paperman khởi đầu bằng cảnh ở ga tàu điện vào thời điểm của thập niên 1940 tại thành phố New York, một chàng trai nhân viên văn phòng bất ngờ gặp một cô gái xinh đẹp tại đây và cô khiến anh ta bối rối và quyến luyến. Khi anh chàng chưa kịp bắt chuyện làm quen vì còn ngại ngùng thì cô nàng không may đi mất, chỉ để lại một vết son môi vô tình in trên một tờ giấy của chàng như lời tạm biệt. Bộ phim gợi lên những nỗi tiếc nuối từ những cuộc gặp gỡ tình cờ mà bất kỳ ai trong chúng ta đều có thể gặp phải giữa dòng đời để rồi vì sự e ngại mà vuột mất cơ hội. Đạo diễn John Kahrs – một cựu họa sĩ của hãng Pixar và hiện đang là chuyên gia hoạt hình của Disney – chia sẻ cảm hứng để anh thực hiện bộ phim hoạt hình ngắn đầu tay của mình chính là những kỷ niệm của ngày tháng tuổi trẻ khi anh sống cô đơn lẻ loi giữa thành phố New York tấp nập người qua lại. Đạo diễn John Kahrs Nguồn: artofdisney.canalblog.com Paperman với hình ảnh đen trắng đơn giản nhưng vô cùng đẹp đẽ và nên thơ, còn là sự kết hợp thử nghiệm lần đầu tiên giữa kỹ thuật vẽ tranh bằng tay và đồ họa vi tính trong cùng một nhân vật tại studio Disney. Theo các nhân viên khâu hoạt hình nhận xét, kỹ thuật này giúp hình ảnh vừa giữ được vẻ uyển chuyển của 2D truyền thống, vừa có chiều sâu được tạo ra từ các hình khối của công nghệ 3D tiên tiến. Nhà sản xuất Kristina Reed trả lời phỏng vấn cho biết các thành viên tham gia dự án bộ phim đã cùng nhau thảo luận rất nghiêm túc và làm việc chăm chỉ hết sức vất vả. Ngoài ra trong lúc làm Paperman cũng xảy ra trắc trở vì thiếu nhân công, bởi vì đa số các họa sĩ làm việc tại hãng Disney phải tập trung vào các bộ phim dài và dự án lớn. Cho đến khi các dự án lớn đó hoàn thành thì họ mới có thể trợ giúp cho đoàn làm phim thực hiện bộ phim ngắn như Paperman và chỉ có thể giúp trong vòng một đến hai tháng. Đó là một điều vô cùng khó khăn đối với đoàn làm phim lúc bấy giờ nhưng cuối cùng họ đã làm được và nhận được phần thưởng xứng đáng. Để người xem có thể có một cái nhìn thoáng qua về Paperman, Disney đã chia sẻ một vài hình ảnh phác thảo của bộ phim như sau. Các bạn yêu thích học vẽ và học làm phim hoạt hình tham khảo để lấy thêm tư liệu cho học tập và công việc của mình nhé. Phác thảo của Scott Watanabe Nguồn: artofdisney.canalblog.com Phác thảo của Shiyoon Kim Nguồn: artofdisney.canalblog.com Bối cảnh thiết kế bởi Helen Chen Nguồn: artofdisney.canalblog.com Một vài bản phác thảo nhân vật của các họa sĩ khác Nguồn: artofdisney.canalblog.com Hình ảnh trong quá trình làm Paperman Nguồn: artofdisney.canalblog.com Comic Media Academy chia sẻ đến học viên và các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D & 3D đoạn clip Paperman and the Future of 2D Animation để các bạn có thể tham khảo và dễ dàng nhìn thấy quá trình thực hiện Paperman của đoàn làm phim cùng sự nỗ lực của họ trong việc thay đổi hoạt hình lúc bấy giờ. Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp)

phim-hoat-hinh-head-over-heels-7

Nguồn: vimeocdn.com Head over Heels là bộ phim ngắn do đạo diễn người Anh tên Timothy Reckart – kiêm người viết kịch bản phim – thực hiện vào năm 2012. Bộ phim được làm theo dạng stop motion với thời lượng 10 phút được sản xuất bởi Fodhla Cronin O’Reilly, khâu hoạt hình gồm hai người là Timothy Reckart và Sam Turner. National Film and Television School (NFTS) phát hành bộ phim vào ngày 24 tháng 5 năm 2012 tại Pháp. Head over Heels đã giành được giải Annie Award cho hạng mục Best Student film, sau đó đạt được Best European Animated Short tại lễ trao giải Cartoon d’Or. Không dừng tại đó, bộ phim đã có tên trong năm ứng cử viên sáng giá cho vị trí Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải Oscar tổ chức năm 2013. Sau khi được đề cử Oscar, bộ phim được phát hành cùng với mười lăm bộ phim ngắn khác cũng được đề cử tại giải, tại các rạp chiếu phim của ShortsHD. Vào tháng 3 năm 2015, bộ phim đã được đăng trực tuyến đầy đủ tại www.headoverheels.tv Nội dung của Head over Heels đặc biệt rất thú vị và là tư liệu quý các bạn yêu thích học vẽ & học làm phim hoạt hình nên tìm hiểu. Head over Heels kể về đôi vợi chồng già Walter và Madge sau nhiều năm chung sống với nhau, họ đã quyết định tách riêng ra: Người chồng thì ngủ và sinh sống dưới sàn nhà, người vợ thì sống trên trần nhà. Khi Walter cố thuyết phục bạn đời của mình, sự cân bằng của họ đã tan biến. Ý tưởng về bộ phim là một sự đúc kết từ rất nhiều ý tưởng khác của Timothy Reckart, những điều mà anh nghĩ sẽ khiến cho bộ phim trở nên tuyệt vời hơn. Một câu chuyện về hai người nhìn thế giới một cách khác nhau nhưng họ vẫn phải tìm cách để sống với nhau. Đây là một cảm hứng có thể áp dụng cho bất kỳ sự bất đồng ý kiến ​​về chính trị, tôn giáo. Đạo diễn nhận định đây là một phép ẩn dụ tuyệt vời cho điều đó, không chỉ riêng về hôn nhân. Đạo diễn Timothy Reckart cùng đội ngũ làm phim. Nguồn: facebook.com/HeadOverHeelsFilm Đạo diễn Timothy Reckart cũng chia sẻ về quá trình làm phim Head over Heels. Anh kể bước đầu tiên là tập trung vào phác thảo, làm sao để dẫn đến kết thúc một cách rõ ràng, hợp lý. “Sau đó chúng tôi dành phần lớn thời gian tạo bảng phân cảnh và animatic, đây là quá trình rất dài. Tôi nghĩ rằng tầm khoảng bốn tháng để làm xong. Tuy không lâu lắm, nhưng bạn biết đấy, bộ phim này chỉ có mười phút. Chúng tôi đã trải qua một số bản nháp, chỉ cần liên tục rút gọn bớt nội dung, cố gắng làm cho nó càng ngắn càng tốt. Điều khó khăn khác là làm thế nào để kể câu chuyện mà không cần sử dụng bất cứ cuộc đối thoại nào.” Nguồn: facebook.com/HeadOverHeelsFilm Anh cũng tâm sự thêm rằng đã dành 06 tháng cho việc làm hoạt hình, trong đó có năm tháng là bao gồm việc xây dựng bối cảnh và đạo cụ để chụp. Khi cả nhóm hoàn thành xong căn phòng và nhân vật, họ sẽ đưa nó vào phòng thu và bắt đầu lấy ảnh. Vì thế, cả bộ phim kéo dài từ tháng 7 đến tháng 12 năm 2012. Nguồn: facebook.com/HeadOverHeelsFilm Dưới đây là hai đoạn clip được phía đoàn làm phim Head over Heels cung cấp sẽ giúp học viên và các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D & 3D hiểu thêm về quá trình thực hiện bộ phim đáng yêu này. HOH Timelapse: Animating a shot HOH Timelapse: Breaking down and setting up   Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp)  

Fresh-Guacamole-phim-hoat-hinh-ngan-nhat-duoc-de-cu-oscar-3

            Poster phim. Nguồn: pesfilm.com Fresh Guacamole là bộ phim ngắn năm 2012 do PES (tên thật là Adam Pesapane) đạo diễn kiêm viết kịch bản. Phim được sản xuất do PES Productions và phát hành bởi Showtime hợp tác cùng ShortsHD, ra mắt vào ngày 2 tháng 3 năm 2012 tại Mỹ. Bộ phim đã được đề cử giải thưởng Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) của lễ trao giải Oscar lần thứ 85 diễn ra vào năm 2013. Với thời lượng vỏn vẹn 1 phút 40 giây, đây là bộ phim ngắn nhất từng được đề cử cho giải Oscar. Nguồn: pesfilm.com Với thời lượng ngắn như vậy. Các bạn yêu thích học vẽ, học làm phim hoạt hình chắc chắn đã thấy rằng nghệ thuật là không có giới hạn và bất kể ai trong chúng ta cũng có thể trở thành một tác giả có tác phẩm được đề cử. Những bộ phim của PES chủ yếu là theo hình thức 2D và Stop-Motion và luôn là chủ đề về cuộc sống xung quanh con người. Những sản phẩm do anh ta làm ra luôn đầy tính sáng tạo đến mức bất ngờ, hài hước, súc tích và suy tư. Điển hình như Fresh Guacamole có nội dung rất gần gũi: Sử dụng các vật dụng kỳ lạ làm món bơ dầm. Nội dung thì nghe có vẻ đơn giản nhưng cách thức mà PES sử dụng kỹ thuật pixilation để mô tả một người đàn ông làm món bơ dầm từ các thành phần bất thường, mà mỗi khi cắt lại trở thành một thứ khác khiến cho khán giả không khỏi thích thú, bị lôi cuốn với sự sáng tạo độc đáo của PES và không thể dời mắt khỏi bộ phim. Đó là lý do tại sao khi Fresh Guacamole ra mắt lần đầu tiên tại Youtube, chỉ trong bốn ngày đầu công chiếu trên mạng đã có 3,5 triệu lượt xem và nay con số lên đến hơn 54 triệu lượt xem. Trong một cuộc phỏng vấn với ANIMATIONWorld, PES đã nói về nét riêng trong Fresh Guacamole và các phim khác của anh: “Các phim của tôi không nhất thiết đi theo cảm xúc con người, sự phát triển nhân vật hay diễn biến tâm lý. Mà vẫn dựa trên ý tưởng là chính. Người ta đi xem phim truyện để được dấn thân vào một trải nghiệm, một hành trình, đi theo một nhân vật. Nhưng triết lý riêng của tôi là người ta cũng muốn xem một thứ gì khác ngắn hơn. Người ta có thể cảm thấy đầy lý thú và thỏa mãn từ một thứ ngắn và có thể xem đi xem lại mà vẫn thấy chiều sâu.” Đạo diễn PES. Nguồn: media.salon.com Ngoài ra, anh còn chia sẻ thêm: “Theo quan niệm của tôi, phim ngắn còn mạnh mẽ hơn vì nếu ta có thể làm ra một thứ gì đó mà người khác muốn xem đi xem lại hàng chục lần thì nó đã cho phép ta kết nối. Khán giả thường phản ứng tốt với các dạng phim ngắn vì phim quảng cáo đã thành công 50 năm nay. Não của chúng ta đã bắt nhịp được với lối kể chuyện cô đọng cao độ này.” Ý tưởng để PES làm bộ phim Fresh Guacamole theo anh kể thì vào một ngày anh ta đi bộ và ghé vào một cửa hàng thực phẩm mua đồ. PES thấy một đống bơ và tưởng tượng về việc lấy thử một trái và ném nó vào khắp nơi trong cửa hàng. Vì vậy, ý tưởng về lựu đạn bơ đã ra đời và được PES sử dụng vào bộ phim này. Tuy nhiên, để có thể khiến bộ phim giống như một câu đố và khiến khán giả phải kết nối và xác định đối tượng thông qua các phương tiện khác nhau để mường tượng ra thật không dễ dàng. PES cũng thừa nhận làm các bộ phim về nấu ăn mà để nghĩ ra nguyên liệu một cách “đặc biệt” đôi khi cũng là thử thách lớn dành cho anh. Nguồn: pesfilm.com PES chia sẻ thêm về cách mà anh ta làm ra bộ phim như sau: “Tôi đã từng sử dụng công cụ LunchBox nhưng bây giờ tôi chuyển sang Dragon. Công cụ mới này không phải không có những lỗi phiền phức nhưng nó vẫn có nhiều lợi ích cho tôi. Vì vậy, tôi thiết lập lên công cụ Dragon rồi dùng máy ảnh kỹ thuật số để chụp ảnh tĩnh. Chỉnh sửa trong Final Cut và thiết kế âm thanh trên đó luôn, sau đó tôi kết hợp cả hai vào. Đó chính là cách tôi đã làm cho đứa con của mình. Thêm chút chỉnh sửa trên Photoshop và chúng tôi hoàn tất.” Comic Media Academy chia sẻ đến học viên và các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D & 3D đoạn phim đầy đủ của Fresh Guacamole được chính PES đăng công khai trên trang PESfilm Tại Youtube.   Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp) (Bài viết có sử dụng dữ liệu từ Howfilmschool)

phim-hoat-hinh-adam-and-dog-10

Poster phim. Nguồn: imdb.com   Trailer: Adam and Dog là phim hoạt hình ngắn của đạo diễn Minkyu Lee hợp tác cùng nhóm bạn thân của anh – những người có kinh nghiệm làm việc tại các hãng studio khác nhau, trong đó bao gồm các hãng lớn như Disney Feature, Dreamworks và Pixar. Bộ phim với độ dài 16 phút ra mắt vào ngày 6 tháng 11 năm 2012 tại Mỹ, đã vượt qua hàng trăm các phim hoạt hình ngắn khác để có trong tay tấm vé đề cử cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại Lễ trao giải danh giá Oscar năm 2013  và nhận được giải thưởng Best Animated Short Subject tại Annie Awards lần thứ 39. Adam and Dog là một tác phẩm chắc chắn sẽ khiến các bạn yêu thích học vẽ, học làm phim hoạt hình nên tìm hiểu về kịch bản, thiết kế nhân vật và diễn hoạt. Adam and Dog kể về một chú chó đang lang thang đi đến Eden thì một ngày chú ta gặp một sinh vật kỳ lạ tên Adam. Họ đi cùng nhau và dành cả ngày vui chơi ở khu vườn, nhanh chóng trở thành đôi bạn thân không thể tách rời – cho đến khi có sinh vật mới xuất hiện – đó chính là Eve. Sau khi Eve tới thì Adam đã bỏ rơi chú chó thân thiết. Nhưng khi cả hai người Adam và Eve vì phạm phải tội nên phải rời khỏi khu vườn Eden, chú chó trung thành vẫn đi theo họ vào cảnh khổ cực. Đạo diễn Minkyu Lee chia sẻ về đứa con của mình: “Bộ phim hoạt hình này được thực hiện bởi tôi cùng Jennifer Hager, James Baxter, Mario Furmanczyk, Austin Madison và Matt Williames. Glen Keane cũng đã giúp đỡ bằng cách làm tư vấn cho bộ phim, cũng làm một số visual development. Đây là một tác phẩm hoàn toàn độc lập mà không có sự tham gia của studio. Chúng tôi rất vui mừng khi mọi người thích nó và chia sẻ với nhau.” Adam and Dog là bộ phim hoạt hình 2D truyền thống và được tô điểm với màu sắc trang nhã, khiến khán giả phải rung động ngỡ ngàng trước tài hoa của các họa sĩ tham gia, thể hiện rõ nhất là bối cảnh phim rất hùng vĩ và tạo cảm giác bình yên cho người xem – đây cũng là niểm nổi bật của Adam and Dog. Mất khoảng ba năm để Minkyu Lee hoàn thành bộ phim, trong lúc đó anh vừa phải làm việc tại Disney cho các dự án như Winnie the Pooh và Wreck-It Ralph. Minkyu Lee gần như đã vắt kiệt sức bản thân cho bộ phim của anh trong suốt các đêm và các ngày cuối tuần, nhưng để có thể hoàn thiện bộ phim tốt đẹp, anh quyết định xin nghỉ phép bốn tháng ở Disney để có thể dành hết tâm trí vào Adam and Dog. Ngoài ra Minkyu Lee không chỉ là đạo diễn của bộ phim, mà còn là nhà sản xuất, họa sĩ kịch bản, nhà thiết kế, lead animator và họa sĩ nền. Hầu hết các bối cảnh trong phim đều được anh thực hiện qua Photoshop. Đạo diễn Minkyu Lee cũng tâm sự về ý tưởng thực hiện bộ phim với GoldDerby rằng anh lấy cảm hứng từ sau khi đọc bài viết trên National Geographic về nguồn gốc của loài chó. Cùng Comic Media Academy ngắm nhìn những mẫu phác thảo từ đứa con Adam and Dog của Minkyu Lee dưới đây: Phác thảo nhân vật Adam và chú chó Nguồn: blackwingdiaries.blogspot.com Các bối cảnh trong phim Nguồn: cartoonbrew.com Ngoài ra Comic Media Academy chia sẻ đến các bạn học viên cùng các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D hai clip hậu trường từ  bộ phim Adam and Dog. Adam and Dog (2011) Pencil Test by James Baxter Adam and Dog (2011) Pencil Test 2 by Jennifer Hager Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp)

Poster của phim The Damn Keeper. Nguồn: imdb.com The Damn Keeper là bộ phim hoạt hình ngắn với thời lượng 18 phút được sản xuất bởi hai đạo diễn Robert Kondo và Dice Tsutsumi, đồng thời cũng là biên kịch của phim. The Damn Keeper được thực hiện tại Tonko House LLC, được ra mắt chính thức lần đầu tiên tại Liên hoan phim quốc tế Berlin vào ngày 11 tháng 2 năm 2014 và công chiếu tại Mỹ vào ngày 14 tháng 3 cùng năm tại Liên hoan phim trẻ em quốc tế New York. Bộ phim với cốt truyện dễ thương và cảm động đã nhanh chóng làm tan chảy trái tim mỗi người xem và nghiễm nhiên được lọt vào danh sách đề cử Phim hoạt hình ngắn hay nhất của giải thưởng Oscar lần thứ 87, năm 2015. Nội dung của The Damn Keeper chắc chắn sẽ khiến các bạn học làm phim hoạt hình 2D yêu thích bởi sự đáng yêu và sáng tạo của tác phẩm. Phim hoạt hình The Damn Keeper kể về chú lợn con sống cô đơn một mình trong một cối xay gió lớn và có nhiệm vụ bảo vệ thị trân nơi cậu sinh sống khỏi đám sương mù đen nguy hiểm. Ngày qua ngày, cậu luôn phải thức dậy sớm và đúng theo giờ quy định để điều khiển cối xay rồi mới được đi học vì thế người chú heo bé nhỏ lúc nào cũng lấm lem bụi đất. Bạn bè trong trường không ai chơi với cậu, tất cả bọn họ đều tìm cách bắt nạt chú heo nhỏ tội nghiệp cho tới khi cậu gặp bạn cáo – học sinh mới chuyển vào lớp và lúc nào cũng cắm cúi vẽ hí hoáy trong cuốn sổ bí mật. Chú heo con hạnh phúc vì cuối cùng đã có người bạn thân nhưng không may xảy ra sự hiểu nhầm giữa hai người khiến cậu đau đớn vì bị người bạn mới lừa dối. Nỗi đau khổ khiến nhân vật heo con chán nản và bỏ bê luôn công việc quan trọng của mình, làm cho đám sương mù tấn công cả dân làng, khắp nơi đều là tiếng khóc và tiếng la hét sợ hãi. Thật may mắn, heo con nhận ra được mình đã hiểu lầm bạn cáo vì thế cậu đã quyết định dùng hết sức của mình, dũng cảm đi cứu lấy bạn bè cùng thị trấn bằng cách đi đến cối xay gió và thổi đám sương độc ác bay đi. Một câu chuyện nhân văn tươi đẹp, giàu ý nghĩa cùng với hình ảnh nhân vật dễ thương và được tô điểm bằng những màu sắc rực rỡ. Một điều đáng kinh ngạc là bộ phim được làm từ hơn 8.000 bức tranh của các họa sĩ tài năng hợp tác với hai đạo diễn Robert Kondo và Dice Tsutsumi. The Dam Keeper là sự kết hợp với lối vẽ tay truyền thống với những nét cọ màu sắc tươi sáng mang đến cho người xem phong cách hoạt họa đặc trưng điển hình như những tác phẩm trước đây của bộ đôi Kondo và Tsutsumi. (Cả hai người từng là họa sĩ cho các bộ phim hoạt hình nổi tiếng được rất nhiều người biết đến như Ice Age, Ratatouille, Monsters University và Toy Story 3) Ngoài ra bộ phim được thực hiện qua việc dựng những bức tượng nhân vật bằng đất sét để cho ra những thước phim thêm sống động. Dưới đây là một vài hình ảnh được Comic Media Academy sưu tầm từ trang website chính thức của bộ phim: thedamkeeper.com. Các bạn yêu thích học vẽ, học làm phim hoạt hình có thể tìm hiểu thêm. Những ảnh phác thảo ban đầu của nhân vật chính – Chú heo con dũng cảm   Mọi nhân vật đều được nặn bằng đất sét tỉ mỉ Cối xay gió – nơi chú heo con sinh sống và bảo vệ thị trấn Chiếc xe buýt mà chú heo bé nhỏ dùng để đi học Hình ảnh đoàn làm phim The Damn Keeper Trailer chính thức của The Damn Keeper được đăng trên kênh The Dam Keeper tại website Youtube The Dam Keeper: Official Trailer #1 The Dam Keeper: Official Trailer #2 Ngoài ra, trong kênh của Tonko House trên trang Youtube có chia sẻ rất nhiều những đoạn video ngắn về quá trình thực hiện từng khâu trong phim có thể giúp ích rất nhiều cho các bạn học viên tại Comic Media Academy và những bạn có đam mê mãnh liệt trong giới làm phim hoạt hình. Making of The Dam Keeper Short Making Of “PIG: The Dam Keeper Poems” #1– Tonko House’s New Series by Erick Oh   Making Of “PIG: The Dam Keeper Poems” #2 — Tonko House’s New Series by Erick Oh Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp)

Poster phim. Nguồn: filmschoolradio.com Ngoài những bộ phim được thực hiện công phu bằng kỹ thuật làm phim hoạt hình 3D tiên tiến được sản xuất với số lượng nhiều như ngày nay. Chắc hẳn người xem sẽ nhớ nhung về những thước phim hoạt hình được vẽ tay 2D tỉ mỉ ngày xưa đã từng một thời thịnh hành trong giới làm phim hoạt hình. Bộ phim hoạt hình The Bigger Picture chính là một kết hợp táo bạo, hoàn hảo giữa việc vẽ tranh 2D trên tường cùng mô hình giấy để tạo ra những đoạn phim 3D thú vị, ngoài ra điểm đặc biệt của bộ phim là được làm theo dạng hoạt hình tĩnh vật (stop-motion) – một cách làm phim đang khá ưa chuộng hiện nay. Phim hoạt hình The Bigger Picture được sản xuất bởi National Film and Television School (NFTS), dưới sự thực hiện của nữ đạo diễn Daisy Jacobs, cô cũng là biên kịch của bộ phim này cùng với Jennifer Majka. The Bigger Picture được phát hành vào ngày 21 tháng 5 năm 2014 tại Pháp và phát hành tại Mỹ vào ngày 11 tháng 10 năm 2014 tại sự kiện Hamptons International Film Festival. Bộ phim đã chiến thắng giải thưởng Best British Short Animation tại lễ trao giải lần thứ 68 của British Academy Film Awards và lập tức lọt vào vị trí đề cử cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) của giải thưởng Oscar lần thứ 87, năm 2015. Phim hoạt hình The Bigger Picture có độ dài tám phút được đạo diễn Daisy Jacobs sử dụng hình ảnh nhân vật cao hai mét để diễn tả câu chuyện mang hơi hướng hài kịch đen (Dark humor) trào phúng kể về mâu thuẫn gay gắt cùng sự ghen tỵ giữa hai anh em Richard và Nick trong việc chăm sóc người mẹ già yếu sắp mất của họ. Người anh tên Nick thì may mắn và thành đạt, anh ta và luôn được mẹ dành nhiều yêu thương hơn người em dù Nick ít quan tâm đến bà và lâu lâu mới quay về gia đình thăm người thân. Ngược lại hoàn toàn với Nick là người em trai tên Richard – cũng là nhân vật chính của The Bigger Picture. Chính vì sự thương yêu không công bằng của người mẹ dành cho anh mình đã làm dấy lên sự khó chịu trong lòng của Richard. Khi bản thân anh đã dành hết thời gian để chăm sóc cho người mẹ ốm yếu của mình nhưng lại không được bà quan tâm bằng anh trai. Nữ đạo diễn trẻ Daisy Jacobs đã chia sẻ về lý do tại sao cô chọn đề tài nhạy cảm này để thực hiện bộ phim như sau: “Tôi nghĩ The Bigger Picture đã gợi lên điều quan trọng về cách chúng ta chăm sóc cha mẹ của mình khi bản thân chúng ta lớn lên. Theo tôi, mọi người có rất nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này, nhưng tôi nghĩ đây là điều cần phải nói lên thông qua bộ phim.” Nữ đạo diễn Daisy Jacobs và đồng nghiệp Chris Wilder Nguồn: art-vibes.com Bộ phim gây sự thích thú cho người xem qua phương pháp làm phim hoạt hình độc đáo với sự kết hợp tuyệt vời giữa nghệ thuật vẽ tranh 2D ghép với mô hình giấy và 3D (tên tiếng anh gọi là 3D Stop Motion Animation). Dưới đây là một vài hình ảnh được Comic Media Academy sưu tầm sẽ cho chúng ta thấy sự kỳ công của đoàn làm phim khi thực hiện The Bigger Picture.  Quang cảnh khi cả đoàn đang thực hiện bộ phim >>> Có thể bạn quan tâm: Khóa học làm phim hoạt hình 3D chuyên nghiệp Những nhân vật đều được vẽ tay và gắn những mô hình giấy Nguồn: art-vibes.com & animamundi.com.br Với việc kết hợp như vậy sẽ cho ra những thước phim sống động nghệ thuật Nguồn: thisiscolossal.com Comic Media Academy chia sẻ đến các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D và 3D đoạn phim đầy đủ được đoàn làm phim đăng công khai trên kênh Vimeo của đạo diễn Daisy Jacobs cùng với đoạn phim thực hiện The Bigger Picture. The Bigger Picture full movie:   TRIK SHOW: Making Of Daisy Jacobs The Bigger Picture Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp)  

Poster của bộ phim Nguồn: filmaffinity.com Me and My Moulton là phim hoạt hình ngắn dí dỏm và hài hước nhưng đầy sự xúc động của nữ đạo diễn người Canada và Na Uy, cô tên là Torill Kove và kiêm luôn vị trí biên kịch cho bộ phim của mình. Me and My Moulton được sản xuất bởi Mikrofilm hợp tác cùng National Film Board of Canada, phim được ra mắt lần đầu tiên tại sự kiện Toronto International Film Festival vào tháng 9 năm 2014 và ra mắt sau đó tại Na Uy vào ngày 3 tháng 12 cùng năm. Bộ phim có độ dài 14 phút kể về một mùa hè những năm giữa thập niên 60 tại Na Uy. Một bé gái bảy tuổi hỏi cha mẹ rằng liệu cô và hai chị em của mình có thể có một chiếc xe đạp như bao bạn cùng lứa hay không. Me and My Moulton dưới cách nhìn của nhân vật cô bé sẽ cung cấp cho người xem một cái nhìn thoáng qua về những suy nghĩ của nhân vật chính khi cô bé ấy phải vật lộn với suy nghĩ bản thân của mình rằng gia đình của cô không giống như những gia đình bình thường khác. Khi quan sát gia đình người bạn thân rồi so sánh với gia đình khác thường của mình, cô nhận ra rằng cha mẹ của mình vẫn yêu thương các con nhưng đôi lúc họ lại quá vô tâm làm cho cô gái nhỏ với tâm tính nhạy cảm lúc nào cũng lo lắng và bối rối về gia đình. Bộ phim như một cuốn tự truyện hài hước được dựa theo những kí ức của nữ đạo diễn Torill Kove về gia đình của mình khi cô còn nhỏ. Me and My Moulton chia sẻ cảm xúc của nữ đạo diễn Kove khi bé chỉ mong muốn được giống như những người bạn gái khác trong khu phố. Nhưng cha mẹ cô vốn là những kiến trúc sư theo phong cách hiện đại nên họ luôn làm những điều rất khác biệt với mọi người, như việc tổ chức lễ mừng sinh nhật cho cô theo phong cách không giống ai. Khi các chị em Kove cầu xin một chiếc xe đạp, cha mẹ của họ đã làm cả ba người ngạc nhiên với một chiếc xe Moulton xuất xứ từ Anh quốc (loại xe đạp với thiết kế khung hình độc đáo và bánh xe nhỏ xíu). Nữ đạo diễn Torill Kove Nguồn: epkurl.com “Tôi đã có cảm xúc vừa yêu, vừa ghét với chiếc xe đạp đó”, nữ đạo diễn Torill Kove chia sẻ thêm “Tôi nhớ ba chị em tôi đã có những bài tập đi xe tại trường với chiếc xe này nhưng hoàn toàn bất lực! Cả gia đình của tôi đã chia sẻ trong việc sử dụng nó cho đến khi chiếc xe bị mất cắp, điều đó từng khiến tôi cảm thấy rất kỳ lạ, bởi vì ai mà đi ăn cắp một chiếc xe bất thường như vậy chứ?” Bộ phim với màu sắc tươi sáng cùng những kỷ niệm gia đình được diễn tả một cách ấm áp đã vinh dự nhận được vị trí đề cử cho giải thưởng Phim hoạt hình ngắn hay nhất tại lễ trao giải Oscar năm 2015. Trước đó, nữ đạo diễn Torill Kove đã có tác phẩm My Grandmother Ironed the King’s Shirts cũng được đề cử tại hạng mục này tại Oscar năm 2000 và một tác phẩm chiến thắng tại Oscar năm 2007 có tựa là The Danish Poet. Hãy cùng Comic Media Academy ngắm nhìn những tấm hình về các bản vẽ của Me and My Moulton và văn phòng làm việc của đạo diễn Torill Kove tại Mikrofilm. >>> Có thể bạn quan tâm: Khóa học làm phim hoạt hình 3D chuyên nghiệp Nơi làm việc của đạo diễn Torill Kove tại Mikrofilm. Nguồn: mikrofilm.no & filmaffinity.com Gia đình của nhân vật chính Me and My Moulton Nguồn: mikrofilm.no & filmaffinity.com Chiếc xe đạp Moulton của ba chị em Nguồn: mikrofilm.no & filmaffinity.com Comic Media Academy chia sẻ đến các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D và 3D đoạn video của FERNTV phỏng vấn nữ đạo diễn Torill Kove về bộ phim Me and My Moulton tại sự kiện Toronto International Film Festival (TIFF) năm 2014. Ngoài ra, các bạn có thể xem trailer giới thiệu của Me and My Moulton cùng những đoạn phim hoạt hình ngắn khác của nữ đạo diễn tại website dưới đây. http://meandmymoulton.com/ Phạm Hoàng Ngọc (dịch & tổng hợp)

Nguồn: disneyanimation.com Tại lễ trao giải Oscar lần thứ 87 (năm 2015), phim hoạt hình Big Hero 6 của đạo diễn Don Hall, Chris Williams và Roy Conli đã đoạt giải thưởng Phim hoạt hình hay nhất (Best Animated Feature Film) và cũng ngay tại buổi lễ long trọng này, Feast – bộ phim hoạt hình ngắn được sản xuất cùng hãng – Walt Disney Animation Studios – đã vinh dự đoạt vị trí cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film). Hãy cùng Comic Media Academy tìm hiểu về bộ phim hoạt hình ngắn về chú chó đáng yêu của chúng ta. Feast được thực hiện bởi đạo diễn Patrick Osborne cùng biên kịch Raymond S. Persi và Nicole Mitchell. Bộ phim được sản xuất bởi Walt Disney Animation Studios, đã được ra mắt lần đầu tiên vào ngày 10 tháng 6 năm 2014 tại Annecy International Animated Film Festival và phát hành tại rạp chiếu phim cùng với phim hoạt hình Big Hero 6 vào ngày 7 tháng 11 năm 2014 tại Mỹ. Phim hoạt hình ngắn này đã chiến thắng vinh quang tại hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải Oscar lần thứ 87 trước bốn đối thủ nặng kí còn lại. Sau đó Feast tiếp tục ẵm trọn giải thưởng tại 42nd Annie Awards cho vị trí Annie Award for Best Animated Short Subject. Nội dung hoạt hình ngắn Feast kể về một chú chó con giống Boston (tên tiếng anh là Boston Terrier) lang thang giữa đường phố kiếm ăn tại các bãi rác. Thật may mắn, chú chó con ấy được một chàng trai James tốt bụng cưu mang và được đặt tên là Winston. Sau đó, bộ phim xuyên suốt là những bữa ăn mà người chủ chia sẻ cho chú chó con bé bỏng của mình và cuộc sống đơn giản và hạnh phúc của James và Winston. Nhưng ngày qua ngày, anh chàng đã động lòng trước một cô gái tên Kirby đang làm việc tại một nhà hàng địa phương. Cô thuyết phục James ăn kiêng và khuyên anh cần có lối sống lành mạnh hơn, điều đó khiến cho Winston buồn rầu vì bị bắt ăn những loại rau chú không thích thay cho trứng và thịt ba chỉ như trước đây. Không lâu sau đó, James và Kirby chia tay và anh chàng rơi vào trầm cảm, sống buông thả bản thân và không còn chú trọng ăn uống như trước đây nữa. Nhận ra tinh thần khác thường của chủ, chú chó Winston quyết định tìm Kirby bằng việc dựa theo mùi ngò tây mà ngày trước được cô cho ăn và dắt James tới gặp cô gái. Nhờ chú chó bé nhỏ tinh khôn, cả hai đã làm hòa và kết hôn ngay sau đó. Ý tưởng hình thành bộ phim Feast đáng yêu này từ đâu ? Patrick Osborne chia sẻ về ý tưởng cho bộ phim hoạt hình ngắn Feast bắt đầu từ một ứng dụng có tên là 1secondeveryday, ứng dụng này cho phép người dùng ghi lại đoạn phim dài một giây cho mỗi ngày và chế tác những đoạn phim nhỏ đó thành một bộ phim. Osborne đã sử dụng chúng để tạo ra một đoạn phim ăn tối vào năm 2012, nhờ đó ông bật ra suy nghĩ có thể dựa vào ý tưởng này để thực hiện một bộ phim hoạt hình ngắn thú vị. >>> Có thể bạn quan tâm: Khóa học làm phim hoạt hình 3D chuyên nghiệp Đạo diễn Patrick Osborne. Nguồn: wikimedia.org Feast được thực hiện qua hệ thống Meander được phát triển cho phim hoạt hình ngắn Paperman. Ngoài ra, phim còn được sử dụng Hyperion, hệ thống dựng hình được xây dựng cho bộ phim hoạt hình Big Hero 6. Nhân vật và bối cảnh trong phim được vẽ bằng những đường nét tự do, kết hợp với những khối màu sắc rực rỡ. Bộ phim bao gồm những phân cảnh ngắn được ghép lại với nhau và máy quay chủ yếu tập trung vào nhân vật chú chó Winston cùng đồ ăn của chú làm điểm trọng tâm cho câu chuyện. Dưới đây là những hình ảnh mà Comic Media Academy sưu tầm được về quá trinh tạo dựng bộ phim Feast trong đoạn clip Making of Disney Feast. Ảnh phác thảo về chú chó Winston và hai vị chủ nhân Nguồn: cgmeetup.net Ngoài ra, các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình có thể tham khảo thêm hai đoạn phim dưới đây do đoàn làm phim Feast cung cấp, sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về từng khâu thực hiện bộ phim cũng như nghe lời chia sẻ cảm nghĩ của đạo diễn Patrick Osborne. 1. Design Night: Art in motion, talk by Patrick Osborne 2. Making of Disney Feast 3. Trailer của phim Feast Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp)

Nguồn: imdb.com A Single Life là một phim hoạt hình ngắn của ba đạo diễn đến từ Hà Lan Marieke Blaauw, Joris Oprins và Job Roggeveen. Bộ phim được viết bởi biên kịch Marieke Blaauw và được sản xuất bởi studio hoạt hình Job, Joris & Marieke. A Single Life được ra mắt vào tháng 9 năm 2014 tại Hà Lan và được liệt vào danh sách đề cử cho vị trí Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại Lễ trao giải Oscars năm 2015 (87th Academy Awards). Bộ phim có độ dài ba phút ngắn ngủi kể về một cô gái trẻ tên Pia, người đã nhận được một chiếc đĩa nhạc bí ẩn có thể xoay chuyển thời gian và thứ đó giúp cô có thể đi qua từ thời gian này đến thời gian khác trong cuộc đời của mình. Điều đặc biệt là bộ phim không có bất cứ đoạn đối thoại nào mặc dù xuyên suốt bộ phim vang lên bài hát chủ đề “A Single Life” của Happy Camper với Pien Feith. Marieke Blaauw, Joris Oprins và Job Roggeveen đã sử dụng Cinema 4D và After Effects làm công cụ chính của họ khi làm A Single Life, nhóm ba người đã khéo léo cho người xem thấy Pia từ trẻ hóa sang một phụ nữ lớn tuổi rồi ngược lại. Bộ phim ban đầu được làm ra cho Ultrakort, một dự án của Quỹ điện ảnh tại Hà Lan và Rạp chiếu phim Pathé nhằm quảng bá cho bộ phim hoạt hình ngắn khác, đã thu hút hơn một triệu người ở tại đây và tiếp tục được chiếu tại các liên hoan phim trên toàn thế giới. Phải mất ba tháng để cả ba đạo diễn hoàn thiện bộ phim A Single Life toàn vẹn. Theo lời tâm sự của cả ba người, thử thách lớn nhất của họ khi làm bộ phim này là làm cách nào để chứng minh cho người xem thấy được Pia già đi qua năm giai đoạn của cuộc đời trong một khoảng thời gian rất ngắn. Bởi vì khi Pia thay đổi, vóc dáng người và mái tóc cùng quần áo của cô cũng phải thay đổi theo thời gian. >>> Có thể bạn quan tâm: Khóa học làm phim hoạt hình 3D chuyên nghiệp Bản vẽ phác thảo cho A Single Life. Nguồn: sohosoho.tv Thay vì tạo ra một bảng phân cảnh hoặc động tác chi tiết, nhóm nghiên cứu quyết định ước tính khoảng thời gian của mỗi cảnh và viết mô tả về cảnh quay trên một dòng thời gian được tạo ra trong After Effects. Oprins giải thích: “Dòng thời gian trong After Effects là nơi chúng tôi thêm thắt đoạn phim cho đến khi bộ phim kết thúc.” Nguồn: studiodaily.com “Chúng tôi đã liên tục điều chỉnh các vị trí của máy ảnh và chỉnh sửa trong khi cả ba đang làm các hoạt động cho các cảnh, điều đó giúp công việc hoàn thiện rất tốt bằng cách sử dụng các công cụ thời gian trực quan của Cinema.” Để làm phim trong khung thời gian hiệu quả hơn, nhóm đã sử dụng xRefs (external reference files), ngoài ra còn sử dụng thêm công cụ placeholder. Ba vị đạo diễn Marieke Blaauw, Joris Oprins và Job Roggeveen. Nguồn: sohosoho.tv Oprins chia sẻ thêm: “Điều này hoàn toàn mới mẻ với cả ba chúng tôi và phải mất một khoảng thời gian để làm quen, nhưng chúng tôi thực sự hạnh phúc với kết quả đạt được.” Dưới đây Comic Media Academy xin chia sẻ đến các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình đoạn video phỏng vấn Job, Joris & Marieke về ba bộ phim của họ gồm A Single Life, MUTE và [Otto] được đăng trên kênh tạp chí hoạt hình Skwigly tại Youtube. Phạm Hoàng Ngọc (Dịch và Tổng hợp)

Phim hoạt hình ngắn Dimanche 2

Dimanche (tên tiếng anh là Sunday) là bộ phim hoạt hình ngắn của Canada do Patrick Doyon làm đạo diễn kiêm viết kịch bản phim. Nhà sản xuất cho bộ phim gồm hai người là Marc Bertrand và Michael Fukushimara. Dimanche được National Film Board of Canada cho ra mắt tại Liên hoan phim quốc tế Berlin vào 02/2011 và công chiếu trên mạng vào 05/01/2012. Tại buỗi lễ trao giải Oscar 2012, Dimanche có tên trong danh sách 5 ứng cử viên xuất sắc của hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) nhưng thật tiếc vì bộ phim đã không đủ may mắn để nhận được giải thưởng này. Poster bộ phim. Nguồn: animationmagazine.net Dimanche là bộ phim hoạt hình mang tính chuyên nghiệp đầu tiên của đạo diễn trẻ Patrick Doyon, anh là người gốc Montréal. Trước đây Patrick Doyon đã làm ra một bộ phim hoạt hình ngắn dài 3 phút vào năm 2006, trong khi tham gia vào chương trình Hothouse của NFB dành cho những nhà làm phim hoạt hình trẻ tuổi. Ý tưởng của Dimanche được dựa theo những ký ức tuổi thơ của chính đạo diễn: “Bộ phim dựa vào một vài ký ức thời thơ ấu của tôi để thêu dệt nên câu chuyện. Tôi đã thay đổi và phóng đại rất nhiều thứ, vì vậy bộ phim của tôi không còn mang theo lối tự truyện. Ví dụ, trong gia đình tôi, có rất nhiều trẻ em và tôi không bao giờ là đứa trẻ duy nhất có mặt trong ngày hôm đó. Nhưng với mục đích của bộ phim, tôi đã loại bỏ những anh em họ của tôi ra khỏi nội dung”. Đạo diễn Patrick Doyon. Nguồn: spectacularoptical.ca Để thực hiện bộ phim Dimanche, anh đã làm việc với bút chì để vẽ ra các mẫu thiết kế trên giấy, toàn bộ cảnh trong phim đều được chính tay đạo diễn Patrick Doyon vẽ tay toàn bộ. Dimanche có thời lượng 10 phút được anh hoàn thành trong vòng hai năm, từ việc thiết kế các bản vẽ trên giấy rồi đến làm việc trên bàn sáng. Patrick Doyon kết thúc với mười lăm thùng đầy những bản phác thảo của mình, sau đó anh quét qua máy tính và tô màu cùng chỉnh sửa trên Photoshop. Cuối cùng, anh tạo bộ phim qua phần mềm Opus của Toon Boom. Patrick Doyon tin rằng cách thức làm hoạt hình như vậy sẽ giúp Dimanche miêu tả cảm xúc tốt hơn. “Một thách thức khác là phong cách vẽ của tôi – vì tôi thường không hoàn tất những đường nét trên bản vẽ rõ ràng, do đó các đường nét tôi tạo ra không liền mạch với nhau và đó là lý do tại sao quá trình tô màu lại khó khăn đối với tôi, khiến cho thời gian sản xuất bộ phim bị kéo dài thêm” – Đạo diễn Patrick Doyon chia sẻ khó khăn của mình khi thực hiện Dimanche. Nguồn: spectacularoptical.ca Comic Media Academy xin chia sẻ hai đoạn clip Making of Dimanche cho bạn đọc và các bạn học viên học làm phim hoạt hình cùng tham thảo. Có thể các bạn sau khi xem hai đoạn clip này sẽ giúp ích phần nào qua các kinh nghiệm bổ ích từ đạo diễn trẻ Patrick Doyon. Phạm Hoàng Ngọc Dịch và Tổng hợp

Phim hoạt hình ngắn The Fantastic Flying Books of Mr Morris Lessmore 3

The Fantastic Flying Books of Mr. Morris Lessmore là bộ phim hoạt hình ngắn do hai đạo điễn William Joyce và Brandon Oldenburg thực hiện và sản xuất bởi Moonbot Studios. Nhà sản xuất gồm ba người: Lampton Enochs, Alissa Kantrow và Trish Farnsworth-Smith. Ngoài ra, kịch bản được viết bởi đạo diễn William Joyce và phát hành vào ngày 30 tháng 1 năm 2011 tại Santa Barbara, California. Sau khi chiến thắng trong hàng chục liên hoan phim, The Fantastic Flying Books of Mr. Morris Lessmore đã xuất sắc nhận được giải Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải Oscar lần thứ 84, buổi lễ được tổ chức vào năm 2012. Poster phim. Nguồn: cloudfront.net Bộ phim có thời lượng 15 phút, mở đầu với cơn bão dữ dội đang quét ngang thành phố và tàn phá tất cả mọi nơi, nó cuốn bay đi những quyển sách, mang đi những chữ viết vô giá. Mặc cho Morris Lessmore có cố gắng hết sức đuổi theo bảo vệ quyển sách yêu quý của ông thì cũng vô dụng. Khi cơn bão qua đi, chúng chỉ để lại cho ông những tờ giấy trắng tan nát. Sau đó, Morris Lessmore lang thang vào một thư viện bí ẩn – ở nơi đó ông bắt gặp những điều bất ngờ với những quyển sách sống động kỳ lạ khiến Morris một lần nữa tìm được màu sắc cuộc sống và cảm hứng đặt bút. The Fantastic Flying Books of Mr. Morris Lessmore được lấy cảm hứng từ William Morris – ông làm việc tại một nhà xuất bản sách thiếu nhi tại HarperCollins và cố vấn của Joyce. William Joyce quyết định viết ra một câu chuyện về một người đàn ông đã cống hiến hết cả cuộc đời mình cho những quyển sách khi ông đang trên đường đến thăm Morris. William Joyce đã đọc tác phẩm của mình cho Morris trước khi Morris mất vài ngày sau đó. Không chỉ với nội dung ý nghĩa, bộ phim này cũng không hề kém cạnh về mặt hình thức. The Fantastic Flying Books of Mr. Morris Lessmore được tạo ra bằng cách sử dụng hoạt hình máy tính 3D kết hợp các kỹ thuật vẽ tay 2D truyền thống, cùng với bối cảnh được dựng bằng mô hình và lựa chọn âm nhạc phù hợp. Ngoài ra, hình ảnh nhân vật Morris Lessmore được mô phỏng ngoại hình dựa theo nam diễn viên điện ảnh Buster Keaton. Có một điểm đặc biệt trong bộ phim nữa, đó chính là đoạn mở đầu được lấy ý tưởng từ cảnh bão trong Steamboat Bill của Keaton, Jr cùng cơn bão Katrina đã đổ bộ qua Mĩ năm 2005 và cơn lốc xoáy từ bộ phim nổi tiếng The Wizard of Oz. The Fantastic Flying Books of Mr. Morris Lessmore đã sử dụng sự tương phản của màu sắc và đen trắng. Trong bộ phim, màu đen và trắng tượng trưng cho nỗi buồn và tuyệt vọng do cơn bão gây ra. Ngược lại, màu sắc cho những niềm hạnh phúc của nhân vật chính. Hãy cùng Comic Media Academy ngắm nhìn những bức ảnh về mẫu thiết kế và bối cảnh của The Fantastic Flying Books of Mr. Morris Lessmore. Mẫu thiết kế nhân vật Morris Lessmore và một số phân cảnh được vẽ bằng tay. Nguồn: awn.com Đạo diễn William Joyce và Brandon Oldenburg. Nguồn: awn.com Comic Media Academy xin chia sẻ đoạn clip The making of Morris Lessmore cho bạn đọc và các bạn học viên học làm phim hoạt hình tham khảo. Nếu các bạn là những người yêu thích sách thì đây chính là một bộ phim hoạt hình không thể bỏ qua. The making of Morris Lessmore Phạm Hoàng Ngọc (Dịch và Tổng hợp)

Phim hoạt hình ngắn Wild Life 2

Wild Life là phim hoạt hình ngắn của đạo diễn Wendy Tilby và Amanda Forbis – cả hai người cùng phụ trách viết kịch bản cho đứa con của mình. Nhà sản xuất gồm 4 thành viên: Marcy Page, Bonnie Thompson, David Verrall và David Christensen và được thực hiện tại National Film Board of Canada. Poster phim. Nguồn: imdb.com Wild Life ra mắt tại Liên hoan phim ngắn toàn cầu 2011 tại Toronto, diễn ra vào 06/2011 và được chiếu trực tuyến vào 06/01/2012. Bộ phim đã được đề cử giải Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại buổi lễ trao giải Oscar lần thứ 84, và vị trí Phim ngắn hay nhất tại Giải thưởng Annie lần thứ 39. Với thời lượng 13 phút 30 giây, Wild Life có bối cảnh diễn ra vào năm 1909, một người Anh di chuyển đến biên giới Canada, nhưng tại đây lại xảy ra vài vụ xung đột đẫm máu. Mặc cho cảnh tưởng thực tế đầy thê thảm, nhưng anh vẫn viết những bức thư kể rằng nơi anh đến vẫn tươi sáng và tốt đẹp. Bộ phim sẽ cho người xem thấy được vẻ đẹp của những đồng cỏ, những nỗi nhớ nhà tha thiết và sự điên rồ trong hoàn cảnh sống đầy rình rập hiểm nguy. Đạo diễn Amanda Forbis và Wendy Tilby. Nguồn: cartoonbrew.com Ngoài việc viết kịch bản và chỉ đạo bộ phim, hai nữ đạo diễn Amanda Forbis và Wendy Tilby còn chịu trách nhiệm khâu thiết kế nhân vật và vẽ từng khung hoạt hình bằng màu gouache. Ngoài ra cả hai còn viết bài hát cho phần kết thúc phim. Trong quá trình làm việc, vẫn có nhiều điều trắc trở, như vấn đề thời gian mà cả hai gặp phải. Amanda Forbis và Wendy Tilby chỉ có thể làm việc cho Wild Life vào những lúc cả hai rảnh rỗi. Vì hạn hẹp thời gian nên hai nữ đạo diễn đã hoàn tất tác phẩm của mình trong khoảng thời gian từ 6-7 năm, từ khâu ý tưởng đến khi hoàn tất khâu thực hiện phim. Khi được phóng viên hỏi về cách thức cả hai làm nên bộ phim hoạt hình ngắn này và cách mà họ chỉnh sửa cho nó, Amanda Forbis và Wendy Tilby đã trả lời rằng họ thay đổi tình tiết ngay trên kịch bản và cả khi làm hoạt họa. Như khi thực hiện khâu hoạt hình, cả hai đã thêm thắt và loại trừ một vài yếu tố khi đang làm cho đến khi hai người hoàn tất giây phút cuối cùng của bộ phim Wild Life. “Tất cả cảnh trong bộ phim đều được vẽ bằng tay, nhưng cũng tùy theo cách bạn xác định nó. Chúng tôi đã làm phim hoạt hình này bằng phần mềm Flash, bằng cách vẽ trực tiếp vào máy. Sau đó, cả hai sẽ in ra các bản vẽ và tô điểm lên chúng bằng màu gouache. Cuối cùng, những bức tranh đó sẽ được quét lại vào máy tính và được chúng tôi ghép lại với nhau. ” – Cả hai đạo diễn chia sẻ về cách thức thực hiện Wild Life. “Thực ra, chúng tôi đã hy vọng sẽ làm Wild Life hoàn toàn bằng máy tính vì chúng tôi nghĩ rằng nó sẽ tiết kiệm thời gian cho cả hai. Nhưng rồi điều đó trở thành một thử thách khó khăn”. Nguồn: Wild Life (Making of) Comic Media Academy xin chia sẻ bạn đọc và học viên học làm phim hoạt hình hai đoạn clip về Making of Wild Life và phỏng vấn đạo diễn Wendy Tilby và Amanda Forbis về tác phẩm của họ. Wild Life (Making of) Wild Life – How It Started (Making of) Phạm Hoàng Ngọc Dịch và Tổng hợp

Phim hoạt hình ngắn A Morning Stroll 1

A Morning Stroll là bộ phim hoạt hình ngắn của Anh do đạo diễn Grant Orchard thực hiện. Bộ phim với thời lượng 7 phút được phát hành bởi nhà sản xuất Sue Goffe và StudioAKA, được ra mắt lần đầu vào 10/06 tại Liên hoan phim Brooklyn 2011, đồng thời bộ phim được chiếu tại Liên hoan phim Sundance 2012. Tại nơi này, A Morning Stroll đã đoạt giải thưởng Hoạt hình hay nhất (Best Animation) và Giải thưởng của Ban giám khảo cho hoạt hình ngắn (Jury Prize in Animated Short Film). Poster phim A Morning Stroll. Nguồn: imdb.com Vào năm 2012, A Morning Stroll đã được đề cử vào vị trí Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại Giải thưởng Viện Hàn lâm (Oscar) lần thứ 84. Nội dung của A Morning Stroll nói về một người dân sống tại New York vô tình bắt gặp một chú gà đang dạo phố. Bộ phim muốn chúng ta tự hỏi rằng – liệu chú gà trống ấy hay những con người xuất hiện trong đoạn phim, bên nào mới có lối sống thành thị đúng chuẩn? Theo đạo diễn Grant Orchard chia sẻ về ý tưởng để anh thực hiện bộ phim A Morning Stroll, kịch bản được dựa trên một sự kiện trong chương “Chú gà” – trích từ cuốn sách “Những câu chuyện có thật về cuộc sống tại Mỹ” do tác giả Paul Auster sáng tác. Về hình thức, A Morning Stroll là sự kết hợp phong phú và đa dạng giữa hoạt hình đen trắng, hoạt hình màu và kỹ thuật 3D hiện đại. Các nhân vật trong bộ phim được đơn giản hóa và được thiết kế hình chữ nhật, tròn hay tam giác. Trong bộ phim, các bạn sẽ nhận ra có ba mốc thời gian chính và được cách nhau 50 năm, gồm: 1959, 2009 và 2059. Đạo diễn Grant Orchard. Nguồn: cartoonbrew.com Ngoài ra, theo Grant Orchard tâm sự trong bài phỏng vấn của anh trên trang Cartoonbrew, ban đầu anh có ý định thực hiện bộ phim hoạt hình ngắn này trong vòng 3 phút. Nhưng trong quá trình làm thì xảy ra vài vấn đề khiến đạo diễn phải tăng độ dài bộ phim lên 7 phút. Vì vậy, lúc đầu các đối tác tại Studio AKA gồm bốn người: Sue Goffe, Philip Hunt, Marc Craste và Pam Dennis nghĩ rằng A Morning Stroll có thể không có nhiều rủi ro. Nhưng thực tế dự án này vẫn là một nguy cơ vì đoàn làm phim không có nguồn tài trợ từ bên ngoài và phải tìm cách để thực hiện bộ phim một cách hoàn hảo mà không ảnh hưởng đến công việc quảng bá đã được thông qua tại phòng thu. Ngoài ra, những đối tác theo Grant Orchard cho rằng họ đã có những thành công đáng kể với những bộ phim hoạt hình ngắn khác, do đó sẽ rất dễ dàng để những người đó từ chối tiếp tục dự án với anh, vì đây không phải là loại phim mà bất kỳ ai có thể chắc chắn sẽ làm việc tiếp khi biết rằng nó sẽ phải kéo dài quá trình làm phim so với dự đoán. Nhưng cuối cùng, những đối tác tại Studio AKA vẫn đặt niềm tin nơi đạo diễn Grant Orchard, khiến anh cảm thấy rất vui mừng. Hai mẫu thiết kế nhân vật trong A Morning Stroll. Nguồn: cartoonbrew.com Những chia sẻ của Grant Orchard về A Morning Stroll chắc hẳn mang đến nhiều kiến thức thú vị cho các bạn học làm phim hoạt hình. Hy vọng các bạn sẽ tạo ra được những bộ phim hoạt hình giàu cảm xúc và ý nghĩa.  Phạm Hoàng Ngọc Dịch và Tổng hợp 

Phim hoạt hình ngắn Room on the Broom 1

Room on the Broom là bộ phim hoạt hình ngắn được chuyển thể từ sách ảnh thiếu nhi, được thực hiện bởi hai đạo diễn Jan Lachauer và Max Lang cùng đội ngũ biên kịch gồm hai tác giả quyển sách cùng tên là Julia Donaldson và Axel Scheffler. Bộ phim do Martin Pope và Michael Rose của Magic Light Pictures phối hợp với Orange Eye Limited sản xuất, ra mắt ngày 25/12/2012 tại Anh. Sau đó, bộ phim được phát sóng tại Mỹ trên kênh PBS Kids Sprout như một món quà đặc biệt Halloween vào ngày 30/10/2013. Poster của Room on the Broom. Nguồn: imdb.com Năm 2013, Room on the Broom đã nhận được giải thưởng Children’s Awards cho hạng mục Phim hoạt hình. Ngay sau đó, bộ phim được các chuyên gia trong ngành khen tặng “Một tác phẩm của thiên tài”, đã có tên trong danh sách 5 ứng cử viên sáng giá cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animation Short Films) tại lễ trao giải Oscar 2014. Bộ phim dựa theo tác phẩm cùng tên ăn khách của Julia Donaldson và hình ảnh minh họa bởi Axel Scheffler. Room on the Broom có nội dung kể về một phù thủy tử tế đã mời các con vật mà cô gặp trên đường tham gia chuyến hành trình trên cây chổi của cô, tuy nhiên điều đó khiến chú mèo cô nuôi khó chịu. Sau đó, một con rồng gây chiến với nữ phù thủy và các người bạn đi chung đã giúp cô đánh đuổi được nó. Để trả ơn cho sự dũng cảm của họ, vị phù thủy đã tạo ra một cây chổi mới tuyệt đẹp và có nhiều chỗ cho tất cả mọi người. Hai đạo diễn Jan Lachauer và Max Lang tâm đã sự về quá trình làm bộ phim như sau: “Trong khoảng 6 tháng, đội ngũ chúng tôi tập trung vào việc phát triển nội dung của bộ phim và các nhân vật. Trong các nhân vật thì chúng tôi tự hào nhất là cô phù thủy thân thiện, một nhà thám hiểm thích đi đây đi đó khắp mọi nơi và hay giúp đỡ người khác. Trong khi đó thì nhân vật chú mèo có một chút bảo thủ và không muốn chào đón những người bạn khác vào nơi của mình”. Nguồn: cartoonbrew.com Lachauer và Max Lang cũng chia sẻ thách thức lớn nhất là làm ra kịch bản phân cảnh (Storyboard) sao cho hấp dẫn và sinh động. Đoàn làm phim đã dành rất nhiều thời gian để chỉnh sửa cho phù hợp với thời lượng bộ phim hoạt hình ngắn cho phép. Thật may mắn, qúa trình này được giải quyết thành công bởi Waldemar Fast và giám sát hoạt hình Tobias v. Burkersroda, họ là hai người bạn tốt của Jan Lachauer và Max Lang. Nguồn: cartoonbrew.com Dưới đây là Concept Art do Manu Arenas thực hiện cho Room on the Broom. Cả hai vị đạo diễn đều rất hài lòng về khả năng nắm bắt bầu không khí bộ phim nhanh chóng và hoàn hảo của anh ta. Nguồn: cartoonbrew.com Về khâu chọn lựa màu sắc cho bộ phim, cả hai đạo diễn Jan Lachauer và Max Lang đã làm việc với Aurelien Predal. Trong vòng hai tuần, anh đã trình bày bảng màu sắc phù hợp cho bộ phim. Bảng màu này trở thành hướng dẫn cho đội ngũ đoàn làm phim tiếp tục cho phần còn lại trong quá trình sản xuất và có sức ảnh hưởng lớn đến mọi thứ từ thiết kế đến khâu ánh sáng. Nguồn: cartoonbrew.com Bối cảnh trong phim được lấy cảm hứng từ Manu và Aurelien, phần xây dựng bối cảnh được giám sát bởi Klaus Morschheuser và Katja Moll, cả hai người này đã tạo ra thế giới trong Room on the Broom. Bức ảnh dưới đây sẽ cho các bạn thấy họ đã xây dựng một cây linh sam từ cây chồi nhìn chân thật như thế nào. Ngoài ra Room on the Broom còn có đội ngũ 9 thành viên trong khâu hoạt hình rất tài năng khi hoàn thành công việc vừa nhanh vừa hiệu quả. Cả đội làm trung bình một cảnh hoạt hình tầm 12s/tuần cho bộ phim và kết quả rất được cả hai đạo diễn ưng ý. Nguồn: cartoonbrew.com Qua bài viết về bộ phim hoạt hình ngắn Room On The Broom, Comic Media Academy hy vọng các bạn học làm phim hoạt hình đã tích lũy những bài học riêng cho bản thân và có ý tưởng cho tác phẩm hoạt hình của chính mình.  Phạm Hoàng Ngọc Dịch và Tổng Hợp  

Phim hoạt hình ngắn Get A Horse 2

Get A Horse! – bộ phim hoạt hình ngắn về chú chuột Mickey lừng danh, một nhân vật ngộ nghĩnh gắn liền với rất nhiều tuổi thơ của trẻ em và người lớn. Được phát hành ngày 09/08/2013 tại Annecy International Animated Film Festival và chiếu rạp chính thức vào 27/11 cùng với Frozen. Bộ phim được thực hiện bởi đạo diễn Lauren MacMullan cùng nhà sản xuất Dorothy McKim. Có đến bốn người tham gia trong mảng biên kịch gồm: Paul Briggs, Nancy Kruse, Lauren MacMullan và Raymond S. Persi. Nguồn: cadeoleo.com.br Mickey Mouse in “Get A Horse!” trailer Ngoài ra, trong việc tạo dựng bộ phim tất nhiên không chỉ có biên kịch và đạo diễn, Get a Horse! còn hội tụ các nhân viên kỳ cựu đầy tài năng của hãng Walt Disney Animation Studios, bao gồm: – Animation thực hiện bởi hai người là Eric Goldberg và Adam Green. – Layouts do Alfred “Tops” Cruz và Jean-Christophe Poulan. Với sự đầu tư kỹ lưỡng này, đây chính là ứng cử viên từng được xem là đối thủ nặng ký từ hãng Walt Disney Animation Studios trong hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải Oscar 2014. Get a Horse! có nội dung kể về Mickey, Minnie, Horace Horsecollar và chú bò Clarabelle đang đi trên một chiếc xe chở rơm, cả bọn đang hát hò vui vẻ thì Peg-Leg Pete cố gắng tông họ ra khỏi đường và bắt cóc Minnie. Đạo diễn Lauren MacMullan rất thích những tập phim hoạt hình ngắn trước đây của chú chuột Mickey vì thế cô đã quyết định chọn một phong cách tương tự như các tập phim năm 1920 để làm bộ phim này và thực hiện Get a Horse! trong vòng 6 tháng. Bộ phim là sự kết hợp đầy hài hước giữa hoạt hình trắng đen và màu sắc rực rỡ, được làm dưới dạng CGI kết hợp với phong cách hoạt hình vẽ tay từ những tập phim hoạt hình chú chuột Mickey nổi tiếng vào cuối những năm 1920. Hai khâu vẽ hoạt hình bằng tay và hoạt hình máy tính đều được trưởng hai bộ phận là Eric Goldberg và Adam Green giám sát chặt chẽ và để có thể làm giống như những hình ảnh các tập phim năm 1928 trước đây, họ đã sử dụng hai công cụ là aging và blur filters vào hình ảnh. Trong phần CGI, họ tạo ra các mẫu thiết kế mới cho nhân vật trong bộ phim này nhưng vẫn có nét tương đồng với các mẫu thiết kế nhân vật cũ năm 1928. Các mẫu thiết kế vẽ tay do Eric Goldberg giám sát. Nguồn: cgmeetup.net Còn mảng hoạt hình máy tính được giám sát bởi Adam Green. Nguồn: cgmeetup.net Điều đặc biệt là âm thanh lồng tiếng của các nhân vật trong Get a Horse! đều được dựa theo những bản ghi âm được lưu trữ tại Walt Disney Animation Studios từ các nhân viên lồng tiếng trước đây, trong đó bao gồm cả ông Walt Disney – người sáng lập ra hãng studio này. Dorothy McKim đã chia sẻ vài điều về việc ghép những bản ghi âm cũ từ các diễn viên lồng tiếng vào bộ phim: “Mỗi câu từ bạn nghe từ nhân vật Mickey đều là giọng thật của ngài Walt. Có điều là có một từ chúng tôi không thể tìm thấy trong các bản ghi âm trước đây, đó là từ “red”. Chúng tôi tìm, tìm và tiếp tục tìm nhưng vẫn không thấy. Vì vậy, những gì chúng tôi đã làm là nhờ bộ phận thiết kế âm thanh kiếm ra từ “r”, “eh” và “d” trong các bản ghi âm cũ của Walt. Ba âm tiết khác nhau này chúng tôi ghép lại để tạo ra từ “ red ”. Điều này thật sự thú vị!”. Dưới đây là đoạn clip Making Of Disney Get a Horse sẽ giúp các bạn đọc và các bạn học viên học làm phim hoạt hình tại Comic Media Academy tìm hiểu dễ dàng hơn về quá trình làm Get a Horse! từ đoàn làm phim. Phạm Hoàng Ngọc Dịch và Tổng hợp

Phim hoạt hình ngắn Pearl 8

Pearl – bộ phim được đề cử cho giải thưởng Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại Lễ trao giải Oscar 2017 chính là dự án trong chuỗi Spotlight Stories của Google ATAP. Bộ phim được chỉ dẫn bởi đạo diễn Patrick Osborne – cũng là đạo diễn của phim hoạt hình ngắn Feast đã đoạt giải thưởng Phim hoạt hình ngắn hay nhất tại Oscar 2014 – cộng tác cùng nhà sản xuất David Eisenmann và biên tập viên Stevan Riley. Nguồn: © Google Inc. 2016 Pearl được sản xuất bởi Google Spotlight Stories và Evil Eye Pictures, phát hành vào ngày 17/04/2016 tại Mỹ. Các bạn có thể xem bộ phim Pearl đầy đủ qua đoạn phim dưới đây được đăng trong kênh của Google Spotlight Stories trên Youtube. Comic Media Academy đảm bảo nó sẽ khiến bạn rất hứng thú khi xem và không thể cưỡng lại bất cứ giây phút nào, bộ phim hoàn hảo từ nét vẽ, cách dựng phim mới mẻ, nội dung gần gũi đến nhạc phim cực bắt tai. Pearl được dựng trong bối cảnh Hatchback yêu quý của hai nhân vật chính (đây là một kiểu thân xe ô tô gồm hai khoang: khoang động cơ phía trước, khoang hành khách và hành lý chung phía sau). Nội dung chính của tác phẩm kể về hành trình lớn lên của một cô gái trẻ tên Jara và cha đi khắp mọi nơi trên đất nước để thực hiện niềm đam mê trong âm nhạc. Họ mang những món quà tràn đầy yêu thương qua những bài hát đến những người dân khắp mọi miền, sự đam mê cháy bỏng và cố gắng ngày qua ngày. Tất nhiên trong hành trình cũng có những xung đột nho nhỏ giữa cha và con gái trong lứa tuổi thanh thiếu niên – giai đoạn bản năng muốn thể hiện cái tôi của mỗi con người trỗi dậy mãnh liệt. Jara và những người bạn thân của mình tiếp tục cuộc hành trình thực hiện giấc mơ âm nhạc của mình. Bằng sự cố gắng, cả nhóm đã thành công. Một câu chuyện có cốt truyện gần gũi, có thể gợi lên cho mỗi người những ký ức quãng thời gian khi chúng ta còn nhỏ cùng với gia đình của mình hay với những người bạn thân chí cốt luôn sát cánh bên ta dù trong hoàn cảnh khó khăn. Ngoài ra, bộ phim còn truyền cho người xem thông điệp hãy cố gắng và đừng gục ngã trên con đường thực hiện đam mê của bản thân. Pearl khác hoàn toàn với 4 ứng viên còn lại vì âm nhạc là một yếu tố không thể thiếu – trở thành điểm nhấn riêng của bộ phim. Giai điệu “No Wrong Way Home” du dương dẫn dắt cốt truyện tăng thêm sự cảm động từ phía khán giả trong khi chứng kiến quá trình cô bé Jara trưởng thành dưới sự nuôi nấng “Gà trống nuôi con” của người cha. Ngoài ra, tác phẩm được làm ở định dạng video 360*, Google Spotlight Story cho phép người xem xoay quanh các phía để quan sát thêm các hành động khác của mọi nhân vật trong phim và câu chuyện diễn ra xung quanh, tạo sự tò mò, hứng thú từ khán giả xem phim. Một lối xem phim độc đáo và bắt kịp xu hướng đổi mới khi ngày nay có rất nhiều video được sản xuất với định dạng 360*. Nếu các bạn đã xem bộ phim Pearl chắc sẽ rất tò mò về phong cảnh được thay đổi liên tục trong phim, được vẽ bởi ba họa sĩ khác nhau và cách dựng phim độc đáo 360* của Google Spotlight Stories. Hãy cùng Comic Media Academy theo dõi một vài hình ảnh từ bộ phim để có thể tích lũy thêm kiến thức cho việc học làm phim hoạt hình của mình nhé. Hình ảnh được lấy từ bài “Patrick Osborne discusses ‘ Pearl ’ (Google Spotlight Stories)” của người viết Ben Mitchell trên trang skwigly.co.uk. Pearl concept painting và được design bởi Aymeric Kevin (Nguồn: Ben Mitchell, skwigly.co.uk) Pearl ‘moment’ painting bởi Tuna Bora (Nguồn: Ben Mitchell, skwigly.co.uk) Pearl set design bởi John Nevarez (Nguồn: Ben Mitchell, skwigly.co.uk) Pearl concept painting bởi Tuna Bora (Nguồn: Ben Mitchell, skwigly.co.uk) Bối cảnh phong phú, thơ mộng được vẽ bởi ba họa sĩ khác nhau. Pearl character design by Oren Haskins (Nguồn: Ben Mitchell, skwigly.co.uk) Pearl character designs bởi Tuna Bora, Oren Haskins, Meg Park, Willie Real & John Nevarez (Nguồn: Ben Mitchell, skwigly.co.uk) Từ bối cảnh đến nhân vật đều được đầu tư kỹ lưỡng cực kỳ. Dưới đây chính là hai đoạn clip về Pearl, một là phỏng vấn đạo diễn  Patrick Osborne về quá trình làm phim Pearl, hai là Behind The Scenes của Pearl. The Making of PEARL with Academy Award-Winning Patrick Osborne Google Spotlight Stories: Behind The Scenes Pearl Phạm Hoàng Ngọc dịch và tổng hợp 

Phim hoạt hình ngắn Borrowed Time 7

Gặt hái liên tiếp 6 giải thưởng trong vòng hai năm và được đề cử cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animatied Short) tại Lễ trao giải Oscar lần thứ 89. Thành quả mà Borrowed Time mang lại là minh chứng cho hành trình không ngừng nỗ lực trong suốt 5 năm của Lou Hamou-Lhadj và Andrew Coats – hai nhân viên đang làm việc tại hãng Pixar Animation Studios. Tác phẩm có độ dài 7 phút, hợp tác cùng nhà sản xuất Amanda Deering Jones và được phát hành bởi công ty Quorum Films. Borrowed Time phát hành lần đầu vào ngày 31/10/2015, sau đó được ra mắt vào ngày 14/10/2016 tại Mỹ. Hai năm liền ẵm tận 6 giải thưởng, có thể thấy Borrowed Time đã làm hài lòng khán giả và giới chuyên môn như thế nào. Đến năm 2017, bộ phim hoạt hình xuất sắc của hai đạo diễn Lou Hamou-Lhadj và Andrew Coats được đề cử trong 22nd Empire Awards Academy Awards với vị trí Best Short Film . Và cũng trong năm này, tác phẩm được đề cử tiến tới giải thưởng 89th Academy Awards (Oscar) danh giá trong hạng mục Best Animated Short Film. Tuy nhiên vị thần may mắn đã không tiếp tục mỉm cười với cả hai đạo diễn khi Piper, một đại diện cũng đến từ Pixar đã đoạt giải thưởng này từ tay họ.  Theo Andrew Coats và Lou Hamou-Lhadj chia sẻ, Borrowed Time được thực hiện trong những dịp rảnh rỗi của cả hai. Họ đã phải dành những ngày nghỉ quý báu của mình để thực hiện bộ phim trong vòng 5 năm. Khi bộ phim được ra mắt đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình từ giới chuyên môn và những người hâm mộ khắp mọi nơi – Đấy chính là thành quả xứng đáng cho sự nỗ lực của đoàn làm phim. Bộ phim với phần mở đầu u tối cùng hình ảnh một người đàn ông đơn độc bước đi trong tiết trời ảm đạm, mịt mù cát xung quanh. Nội dung chính của tác phẩm cho người xem chứng kiến những hồi ức của ông, từng bước đi là sự hồi tưởng những kỷ niệm mà nhân vật chính đã trải qua. Từ những hồi ức đẹp đẽ với người bố thân yêu rồi ngay chớp mắt là tai họa ập đến với cả hai, để rồi trong trái tim của vị cảnh sát trưởng không thể nào dung thứ cho hành động của mình trong quá khứ – nó ám ảnh và khiến ông khốn khổ để rồi quyết định chọn lựa cái chết như là sự cứu rỗi cho tội lỗi vô tình của ông khi xưa. Lý do Borrowed Time ăn điểm trong lòng người hâm mộ và giới chuyên môn có thể là vì chính việc nhà làm phim dám mạo hiểm khai thác phần tăm tối hơn so với tiêu chuẩn làm phim hoạt hình trước đây của cả hai. Một đoạn phim hoạt hình ngắn mang một thông điệp về sự tuyệt vọng, sự dày vò cùng hối hận của người con trai và sự tha thứ từ người bố đã chết qua hình ảnh ẩn dụ từ chiếc đồng hồ yêu quý được tìm thấy sẽ khiến khán giả phải rơi nước mắt, mặc cho bộ phim không có nhiều lời thoại. Với thông điệp sâu kín mà bộ phim mang lại, đây không hẳn là những sản phẩm giải trí dành cho trẻ nhỏ có thể hiểu được. “ Mục tiêu của chúng tôi là tạo ra thứ gì đó nằm ở làn ranh tranh cãi của một bộ phim hoạt hình và một sản phẩm dành cho trẻ em. Chúng tôi thật sự muốn làm ra điều gì đó trưởng thành hơn trong chủ đề và chứng minh rằng hoạt hình có thể là phương cách kể lại bất cứ câu chuyện nào ”, ông Hamou-Lhadj chia sẻ về ý tưởng hình thành bộ phim. Lou Hamou-Lhadj và Andrew Coats. Nguồn: borrowedtimeshort.com Dưới đây là một vài hình ảnh phác thảo và quá trình làm phim được lấy từ đoạn clip “The Crew Behind” Borrowed Time. Qua đó, bạn có tích lũy thêm cho việc học làm phim hoạt hình của mình.  Hình ảnh phác thảo nhân vật chính. Nguồn: cartoonbrew.com Quá trình tạo dựng phim.   Một phân cảnh được hoàn thiện qua ba bước. Nguồn: Borrowed Time Facebook Đội ngũ sản xuất Borrowed Time chụp tấm hình kỷ niệm. Trailer bộ phim:  Năm 2015 – 2016, bộ phim đã gặt hái được một số giải thưởng: – SIGGRAPH cho vị trí Best In Show – St. Louis International Film Festival cho hạng mục Best Animated Short. – Best Animated Short tại Brooklyn Film Festival 2016 – Best Cinematography tại lễ trao giải Fastnet Short Film Festival – First Place: Animation của USA Film Festival – Best Short Animation tại Woods Hole Film Festival Phạm Hoàng Ngọc tổng hợp

Piper câu chuyện đằng sau bộ phim chú chim nhỏ dũng cảm

Cái tên Pixar đã không còn xa lạ với người yêu phim hoạt hình. Những tác phẩm nổi tiếng từ studio này như Toy Story, Finding Nemo, The Incredibles,…. đều được khán giả từ khắp mọi nơi và mọi lứa tuổi đón nhận. Không chỉ dừng lại ở mảng phim hoạt hình dài, Pixar còn hướng đến sản xuất các bộ phim hoạt hình ngắn với nội dung, hình ảnh đặc sắc và luôn xuất hiện trong danh sách đề cử hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất của Oscar. Nguồn: p1.pstatp.com Năm nay, với bộ phim hoạt hình có tên Piper, Pixar đã vượt qua bốn đối thủ đáng gờm khác và rinh được giải thưởng Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short) tại Oscar 2017. Điều gì đã khiến bộ phim này nổi bật đến vậy? Hãy cùng Comic Media Academy tìm hiểu về nội dung và quá trình đoàn làm phim tạo nên bộ phim Piper đáng yêu. Từ đó hy vọng các bạn có thể có thêm bài học cho quá trình học làm phim hoạt hình của mình.  Piper với thời lượng 6 phút do đạo diễn Alan Barillaro thực hiện đã được công chiếu vào ngày 17/06/2016 tại Mỹ. Cũng trong thời gian đó, Pixar đã tung Finding Dory giới thiệu trước công chúng.  Theo đạo diễn Allan Barillaro, bộ phim được lấy cảm hứng từ một chuyến đi rất tình cờ tại vùng Emeryville, California cách Pixar Animation Studios khoảng một dặm. Anh chạy dọc theo bờ biển để quan sát cách hoạt động và kiếm ăn của loài chim Dẽ cổ xám và sau đó quyết định thực hiện bộ phim này. “Nhìn cách phản ứng của các chú chim khi gặp sóng nước tôi biết rằng mình phải làm ngay một bộ phim về chúng. Con người chúng ta thường rất dễ dàng sống trong một môi trường an toàn với mình, tuy nhiên khi ở tại một nơi không còn thân thuộc nữa chúng ta rất giống những chú chim bé nhỏ trên bờ biển. Ai ai cũng đã đến bãi biển nhưng không phải ai cũng ngắm nhìn biển cả từ môt vị trí nhỏ bé nhất. Đó chính xác là góc nhìn đầy sợ hãi của những chú chim nhỏ”, Allan Barillaro chia sẻ trên trang audubon.org. Những chú chim nhỏ nhắn này là nguồn tư liệu cho bộ phim Piper của Allan Barillaro. Nguồn: Patul Rich/Audubon Photography Piper mở đầu nhẹ nhàng với hình ảnh sóng biển rì rào đánh vào vùng biển Emeryville, California, xa xa có đàn chim Dẽ cổ xám đang hí hoáy kiếm ăn. Nội dung chính của bộ phim nói về chú chim Dẽ bé nhỏ đang run rẩy không dám thoát ra khỏi sự bảo vệ của mẹ mình để kiếm ăn. Tuy nhiên nhờ sự động viên nhiệt tình từ mẹ, em quyết định liều mình xuống chung với bầy đàn thì không may bị cơn sóng vô tình vỗ liền tiếp đó. Chú chim nhỏ tội nghiệp từ đó bị ám ảnh và sợ hãi những cơn sóng biển dập dềnh và nhất quyết không chịu rời khỏi tổ. Nhưng thật may mắn, em chợt thấy những chú cua thân hình tuy nhỏ nhắn nhưng ý chí dũng mãnh, đang đào cát kiếm thức ăn mặc cho những cơn sóng hung dữ ập tới không ngừng. Chú chim bé nhỏ bắt đầu tò mò, bắt chước những chú cua và sau đó chứng kiến được vẻ đẹp của thể giới dưới lòng nước bao la. Điều đó đã làm trỗi dậy tâm hồn thích thú của em và ngày qua ngày, chú chim Dẽ nhỏ bé dần dần trở nên khéo léo trong việc săn mồi cho cả đàn chim. Dưới đây là một vài hình ảnh và đoạn video về quá trình làm phim hoạt hình Piper của đạo diễn Allan Barillaro: Đạo diễn Allan Barillaro – Người được xem là Good In A Room của bộ phim. Nguồn:  Deborah Coleman / Disney•Pixar Một nhân viên đang lấy tư liệu về chim Dẽ tại bờ biển. Nguồn: Disney•Pixar Thiết kế nhân vật. Nguồn: Disney•Pixar Các bước thực hiện 3d/visual effects cho một cảnh phim Piper. Nguồn: cgmeetup.net Và đây là thành quả!. Nguồn: cgmeetup.net Hình ảnh các nhân viên trong đoàn làm phim đang thảo luận và thực hiện Piper. Nguồn: ohmy.disney.com   Đoạn video ngắn Making of Pixar Short Movie – Piper: Piper là một sản phẩm mà Pixar rất tâm đắc và tự hào về thành tựu công nghệ, khả năng sáng tạo phong phú và sức làm việc dồi dào không ngừng nghỉ từ đội ngũ nhân viên ưu tú của studio. Không chỉ gây ấn tượng cho người xem về mặt kỹ thuật, Piper còn là một bộ phim tràn đầy ý nghĩa về cách dạy con của bậc cha mẹ – đây chính là một bài học quý giá cho những gia đình có con nhỏ. Ngoài ra, thông qua bộ phim Pixar còn muốn nhắn nhủ với khán giả rằng mỗi chúng ta cần phải biết tự lột bỏ cái kén của bản thân và tự tin đón nhận mọi thử thách, gian khó mà cuộc đời mang đến. Chỉ như thế, con người mới ngày càng mạnh mẽ và trưởng thành hơn, gặt hái được nhiều thành công từ sự phấn đấu không ngừng. Không nhạc nhiên khi Piper đã dành được tượng vàng danh giá Oscar cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất năm 2017. FULL MOVIE: Phạm Hoàng Ngọc tổng hợp

Hành trình Pear Cider and Cigarettes đi đến mùa giải Oscar 2017 5

Nguồn: © Robert Valley Pear Cider and Cigarettes là bộ phim hoạt hình ngắn của đạo diễn người Canada Robert Valley và nhà sản xuất Cara Speller do Massive Swerve Studios và Passion Pictures Animation sản xuất. Bộ phim phát hành vào ngày 01/07/2016 tại Mỹ với ngôn ngữ tiếng Anh. Bộ phim dựa theo một bộ graphic novel cùng tên của đạo diễn Robert Valley.  Robert Valley – Đạo diễn đồng thời cũng là biên kịch của bộ phim. Nguồn: news1130.com Bộ phim với lối thể hiện độc đáo đã nhận được đề cử cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải Oscar năm 2017. Song cuối cùng, giải thưởng danh giá này lại không thuộc về Pear Cider and Cigarettes.  Pear Cider and Cigarettes kéo dài 35 phút có nội dung dựa theo một câu chuyện có thật kể về mối quan hệ sai lầm giữa Robert và người bạn thuở thơ ấu – Techno bị mắc chứng bệnh tâm lý hành vi tự hủy hoại bản thân nhưng người bạn này lại mang cho Robert một sức hút bí ẩn kỳ lạ khó cưỡng. Techno khóc lóc và cầu xin sự giúp đỡ từ một bệnh viện quân đội ở Trung Quốc, sau đó anh chàng Rob được bạn mình dẫn đến một cuộc đua xe mạo hiểm. Cuối cùng cả hai trở về quê hương tại Thành phố Vancouver – một đô thị hải cảng duyên hải thuộc tỉnh British Columbia, Canada. Màu sắc trong phim Pear Cider and Cigarettes rất đặt biệt, đó là sự pha trộn những phân cảnh đen trắng và sắc màu khác. Ngoài ra, nét vẽ rất riêng của Robert Valley là sự kết hợp độc đáo giữa Nhiếp ảnh và hoạt hình. Nội dung tuy giống như một cuốn phim tài liệu dựa theo sự việc có thật nhưng đã được đạo diễn Robert Valley pha trộn thêm một ít tưởng tượng phong phú của ông nhằm để nhấn mạnh lên cuộc đời và cái chết của nhân vật Techno. Dưới đây là một vài bản phác thảo do chính Robert Valley thực hiện cho bộ phim hoạt hình đầy ấn tượng này. Bạn có thể nghiên cứu những đường nét từ những hình ảnh dưới đây để có thể tích lũy một vài bí kíp cho việc học làm phim hoạt hình của chính mình.  Nguồn: pinterest.com Nguồn: cartoonbrew.com Nguồn: vimeo.com Nguồn: s2spreview.tumblr.com Một số hình ảnh được trích ra từ cuốn “The story behind Pear Cider and Cigarettes” Năm 2017, Pear Cider and Cigarettes đã giành được giải thưởng Annie Awards cho vị trí Best Animated Special Production.  Phạm Hoàng Ngọc dịch & tổng hợp 

Bear Story – Bộ phim hoạt hình ngắn đoạt giải Oscar lần thứ 88 năm 2016 là một sự kết hợp tuyệt vời giữa những ký ức buồn miên man và phong cách steampunk cũ kỹ mang đậm sự hoài niệm. Bộ phim đến từ Punkrobot Studio ra mắt vào 05/2014 tại Chile, do Pato Escala Pierart sản xuất và Gabriel Osorio làm đạo diễn. Bộ phim lấy cảm hứng từ câu chuyện lưu vong của ông nội Osoriso trong chính phủ quân sự ở Chile. Nguồn: i.vimeocdn.com “Ông tôi, Leopoldo Osorio, đã bị bắt giữ vào năm 1973 trong chế độ độc tài Pinochet ở Chile. Ông bị giam giữ trong hai năm, sau đó ông đã trốn sang Anh và buộc phải sống lưu vong, phải cách xa gia đình của mình. Trong suốt thời thơ ấu, tôi luôn cảm thấy sự hiện diện vô hình của ông – một người thân dù còn sống nhưng không có mặt trong cuộc sống của tôi. Bear Story không phải là câu chuyện về cuộc đời ông nội tôi, nhưng nó được lấy cảm hứng từ sự mất mát và niềm thương nhớ ông để lại trong lòng tôi.” – Osorio chia sẻ. Bằng sự tài tình, khéo léo, đoàn làm phim đã khắc họa nên câu chuyện đầy tính nhân văn Bear Story nói về chú gấu u sầu mang chiếc hộp kịch do chính chú ta sáng chế đến góc đường chào mời. Chỉ với một đồng xu, những vị khách có thể nhìn vào trong hộp và chứng kiến lại câu chuyện vô cùng cảm động. Lúc này bộ phim chuyển sang B-story (câu chuyện phụ) kể về một chú gấu bị bắt vào đoàn xiếc khiến chú phải rời xa gia đình nhỏ của mình và cuộc hành trình tẩu thoát đầy gian khó để quay về mái ấm. Tuy phim chỉ vỏn vẹn 11 phút nhưng khiến người xem lắng đọng nỗi buồn man mác, hòa nhập cảm xúc vào mạch phim để rồi xót thương thay cho nhân vật chú gấu tội nghiệp. Bạn có tự hỏi quá trình làm nên một bộ phim tuyệt vời giàu nhân văn như Bear Story như thế nào? Dưới đây chính là những bức hình được chụp lại từ đoạn clip Making of của Bear Story sẽ mang đến những kiến thức hữu ích cho các bạn học làm phim hoạt hình. Đồng thời giúp người xem thấy rõ sự cố gắng cùng niềm đam mê của đoàn làm phim dành cho bộ phim này. Nguồn: Making of của Bear Story Nhân viên đoàn làm phim đang phác thảo nhân vật chú gấu trong Bear Story Từng khung hình được vẽ trau chuốt và viết rõ cặn kẽ Hình vẽ hai cảnh trong bộ phim Hình ảnh một nhân viên trong đoàn phim đang đắp tượng nhân vật Bức hình gia đình hạnh phúc được chú gấu nâng niu trong phim Nguồn: cgmeetup.net Khâu tạo hình nhân vật 3D Nguồn: cgmeetup.net Các bước hoàn thiện một cảnh trong phim Một cảnh phim đang được chỉnh sáng tối phù hợp Hình ảnh so sánh sau khi đã lên màu Bộ phim với nội dung về quá khứ buồn của nhân vật cùng nỗi cô đơn lẻ loi đã giúp bộ phim trở thành một viên ngọc sáng cho hàng loạt phim hoạt hình ngắn trong năm 2016. Cuối cùng những giá trị mà Bear Story mang đến đã được công nhận với giải thưởng danh giá “Phim hoạt hình ngắn hay nhất” trong lễ trao giải Oscar 2016.  Phạm Hoàng Ngọc dịch & tổng hợp >>> Tiếp theo: Những bộ phim hoạt hình ngắn lỡ hẹn cùng Oscar 2016

Những bộ phim hoạt hình ngắn xuất sắc của Oscar 2016

Bên cạnh những giải thưởng lớn như Phim hay nhất, Nam/Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất, Phim hoạt hình hay nhất,… Lễ trao giải Oscar thường niên còn dành một giải thưởng để tôn vinh sự đóng góp cũng như cố gắng của đội ngũ làm phim hoạt hình ngắn, giải thưởng Phim hoạt hình ngắn hay nhất.  Nguồn: cganimationblog.com Top 5 đề cử luôn là những cái tên xuất sắc nhất đại diện cho hàng loạt phim hoạt hình ngắn được ra mắt công chúng trong năm. Bear Story với nội dung ám ảnh về những ký ức buồn miên man và sự cô đơn của nhân vật chú gấu, kết hợp với phong cách steampunk cũ kỹ đã được vinh danh ở hạng mục Phim hoạt hình ngắn xuất sắc trong Oscar 2016. Song, các đối thủ của Bear Story cũng không hề kém cạnh với nội dung và kỹ thuật hình ảnh hấp dẫn. Cùng xem qua các bộ phim ngắn đã bỏ lỡ giải thưởng danh giá dành cho hạng mục phim hoạt hình ngắn nhé.  1. We Can’t Live Without Cozmos Nguồn: winterfilmawards.wordpress.com. Bộ phim hoạt hình ngắn của Nga được phát hành 21/08/2014 do đạo diễn Konstantin Bronzit và nhà sản xuất Aleksandr Boyarskiy thực hiện tại Melnitsa Animation Studio. Bộ phim nói về hai phi hành gia cũng là hai người bạn với nhau. Họ đều cố gắng hết sức trong những ngày tháng đào tạo vất vả để thực hiện ước mơ cháy bỏng của mình. Cuối cùng giấc mơ của họ đã thành hiện thực. Nhưng câu chuyện đằng sau đó sẽ khiến người xem không cầm được nước mắt. Dưới đây là một vài hình ảnh Konstantin Bronzit đang thực hiện vẽ tranh từng khung hình cho bộ phim. Chúng ta có thể thấy rõ cái tâm ông dành cho We Can’t Live Without Cozmos này. Nguồn: tvc.ru. Dưới đây là một đoạn clip phỏng vấn Konstantin Bronzit, bạn có thể học làm phim hoạt hình từ quá trình ông cùng ekip chuẩn bị và hoàn thiện bộ phim We Can’t Live Without Cozmos và một vài phim khác. Bộ phim dài 16 phút sẽ giúp chúng ta thấy rõ mối quan hệ giữ người với người, từng bài nhạc sâu lắng phù hợp từng phân cảnh làm mỗi người xem không khỏi thổn thức với cái kết của phim. Quả đúng là một ứng cử viên sáng giá cho giải thưởng Oscar năm 2016. 2. Prologue Nguồn: imdb.com0. Prologue – một bộ phim hoạt hình ngắn đến từ nước Anh do đạo diễn Richard Williams cùng nhà sản xuất Imogen Sutton thực hiện và phát hành vào 17/10/2015 tại Anh và 23/02/2016 tại Mỹ. Bên cạnh đề cử Oscar 2016, bộ phim còn được đề cử cho giải BAFTA ở hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất. Được biết ý tưởng Prologue được Richard nung nấu khi 15 tuổi.  Bộ phim ngắn 6 phút này kể về trận chiến tàn bạo giữa Athenian và Spartan cách đây 2400 năm trước. Act Break của bộ phim chính là cảnh cô bé chứng kiến và vội vã bỏ chạy đến người bà của mình khóc nức nở. Cuối cùng đoạn phim lắng đọng được kéo dài bằng hình ảnh người bà ngậm ngùi với giọt nước mắt cay đắng rơi xuống – đây được gọi là Beat. Cold Open của phim ấn tượng bằng việc giới thiệu tên bộ phim được viết bằng bút chì màu và tranh vẽ tỉ mỉ. Từng phân cảnh trong phim được vẽ hoàn toàn bằng tay chau truốt, có thể thấy Prologue được đầu tư kỹ càng. Từng khung tranh được vẽ tỉ mỉ, rõ ràng từng đường vân và bộc lộ lên thần thái nhân vật.  Nguồn: catsuka.com. Dưới đây là đoạn clip phỏng vấn của ông về bộ phim Prologue, chúng ta sẽ hiểu được cảm nghĩ của Richard Williams khi thực hiện bộ phim này. Prologue tuy mang xu hướng bạo lực nhưng bộ phim sẽ khiến bất cứ ai khi xem đều phải ngả mũ kính phục trước tài hoa của Richard Williams qua việc ông thổi từng cái hồn của nhân vật bằng nét vẽ của mình.  3. Sanjay’s Super Team Nguồn: disneynerd.files.wordpress.com Một đại diện đến từ nhà Pixar, Sanjay’s Super Team từng là ứng cử viên nặng ký, cạnh tranh cùng Bear Story tại Oscar 2016. Bộ phim do Nicole Paradis Grindle và Sanjay Patel và được phát hành vào 15/06/2015 tại Annecy International Animated Film Festival và ra mắt chính thức vào 25/11/2015. Sanjay’s Super Team có thời gian dài 7 phút kể về Sanjay – một cậu bé người Ấn Độ rất mê xem phim hoạt hình siêu nhân. Tuy nhiên khi phim đang đến đoạn cao trào thì bố Sanjay nhắc cậu đã đến lúc cầu nguyện, cậu bé không chấp nhận nên xảy ra cuộc tranh chấp nhỏ giữa hai người. Cuối cùng Sanjay thua cuộc và đành kéo theo một siêu anh hùng mô hình đến ngồi bên bố mình. Cậu bé nhanh chóng chìm vào giấc mơ và lúc này phim chuyển sang B-story chứa Act Break phân cảnh cậu bé Sanjay chống lại quái vật cùng các vị anh hùng phiên bản Hindu cực ấn tượng. Bộ phim được lấy cảm hứng từ ký ức tuổi thơ của đạo diễn Sanjay Patel – anh được xem Good In A Room của bộ phim. Dưới đây là một vài hình ảnh được trích ra trong cuốn sách THE ART OF PIXAR SANJAY’S SUPER TEAM – Derivative Content được nhà làm phim bán ra nhằm quảng bá bộ phim này.  Nguồn: gheehappy.com Dưới đây là đoạn clip Sanjay’s Super Team (2015) Featurette – The Making Of có đoạn phỏng vấn của Sanjay Patel nói về ý tưởng và quá trình thực hiện bộ phim Sanjay’s Super Team. Một bộ phim được đầu tư kỹ lưỡng từng hình ảnh kết hợp với 3D độc đáo, hiện

Phim hoạt hình Your Name

Với thành tích khủng, oanh tạc phòng vé châu Á, bộ phim hoạt hình bom tấn của đạo diễn Makoto Shinkai đang nhận được sự kì vọng rất cao tại Oscar 2017. >>> Có thể bạn muốn tìm hiểu: Khóa học làm phim hoạt hình 3D Phim hoạt hình Your Name – Cơn sốt phòng vé Châu Á. Nguồn: japantimes.co.jp Hiện tượng phòng vé Nhật của năm 2016, Your Name, do đạo diễn Makoto Shinkai chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của chính ông. Những khán giả yêu thích anime Nhật Bản chắc hẳn không còn xa lạ gì với ông qua các tác phẩm nổi tiếng 5 Centimeters Per Second (2007) và The Garden of Words (2013). Đạo diễn 43 tuổi này đã từng chia sẻ với truyền thông Nhật về ý tưởng của Your Name. Theo đó, bộ phim dựa trên một câu chuyện cổ tích Nhật Bản mang tên Torikaebaya Monogatari. Tác phẩm lấy bổi cảnh triều đình Nhật, với hai nhân vật chính cùng chung huyết thống, nhưng bé trai lại được nuôi dạy như bé gái và ngược lại. Câu chuyện mang nhiều thông điệp về vấn đề giáo dục giới tính trong xã hội Nhật Bản xưa. Your name bắt đầu với câu chuyện hoán đổi thân xác quen thuộc . Nguồn: wall.alphacoders.com Your name bắt đầu bằng câu chuyện đã quá đỗi quen thuộc với những khán giả dòng phim tình cảm châu Á: hoán đổi thân xác giữa hai nhân vật chính là Mitsuha và Taki. Cô nữ sinh trung học vùng nông thôn và cậu nam sinh sống ở trung tâm thành phố Tokyo bất ngờ tỉnh dậy trong thân xác của nhau, từ đó biết bao nhiêu tình huống dở khóc, dở cười xảy ra. Bước ngoặt của bộ phim xuất hiện khi một sao chổi chuẩn bị bay ngang qua Trái đất, đúng lúc Mitsuha và Taki nhận ra tình cảm mà cả hai dành cho nhau. Phim hoạt hình bom tấn Your name (tựa gốc là Kimi no Na wa) chính thức ra rạp tại Nhật vào ngày 26/8, thu được gần 178 triệu USD và chưa có dấu hiệu dừng lại. Tại thị trường Trung Quốc, bom tấn này cũng khẳng định được sức hút của mình khi đem về 71 triệu đô sau hai tuần công chiếu. Với những thành tích đó, bộ phim vươn lên đứng thứ 1 trong bảng xếp hạng điện ảnh ăn khách nhất 2016 và trở thành phim nội địa ăn khách thứ hai mọi thời đại tại Nhật Bản sau bộ phim của đạo diễn Miyazaki Hayao là Spirited Away. Ngay từ khi ra mắt, Your Name đã được giới phê bình đánh giá rất tích cực. Trong số 26 bài phê bình trên Rotten Tomatoes, có đến 96% cho phim 8,3 điểm. Cha đẻ của bộ phim hoạt hình Your Name, Makoto Shinkai, từng được báo chí Nhật Bản ví là “Miyazaki tiếp theo” và được kỳ vọng sẽ nối gót Miyazaki Hayao (nhà sáng lập xưởng hoạt hình nổi tiếng Ghibli Studio) đưa ngành công nghiệp hoạt hình Nhật Bản trở lại và vang danh trên thị trường hoạt hình thế giới. Your name đang được kì vọng sẽ mang về cho Nhật Bản giải Oscar 2017. Nguồn: akmarmohamed.deviantart.com Nhiều ý kiến cho rằng, hạng mục Phim hoạt hình hay nhất của Oscar từ lâu đã là sân chơi của Disney và Pixar khi hai cái tên này liên tiếp thay nhau nhận được tượng vàng Oscar. Trong lịch sử Oscars, chỉ một lần tác phẩm đến từ châu Á được vinh danh và đó chính là tác phẩm hoạt hình Nhật Bản với Spirited Away (2001) của đạo diễn Miyazaki Hayao. Chiến thắng này của Spirited Away đã tạo ra một bất ngờ lớn cho làng hoạt hình thế giới, đưa Ghibli trở thành một cái tên quen thuộc và được nhắc đến bên cạnh các xưởng phim hoạt hình nổi tiếng. Trở lại với Oscars 2017, hoạt hình Nhật Bản với đại diện là Your Name có thể lặp lại được lịch sử mà Spirited away đã làm được? Con đường đến với Oscar thứ hai của hoạt hình Nhật Bản tuy khó khăn, nhưng khán giả yêu thích Your Name hoàn toàn có thể đặt kỳ vọng vào một bất ngờ tại hạng mục Phim hoạt hình hay nhất Oscar 2017. Đề cử chính thức cho top 5 Phim hoạt hình hay nhất Oscar 2017 sẽ được công bố vào ngày 24/01/2017. Minh N 

Phim hoạt hình Moana ứng viên sáng giá cho tượng vàng Oscar 2017

“Nàng công chúa bình dân nhất” của Disney đang chứng tỏ được sức hút không giới hạn của mình khi đứng giữa các phim hoạt hình bom tấn khác. >>> Có thể bạn muốn tìm hiểu: Khóa học làm phim hoạt hình 3D Moana – Ứng viên sáng giá cho tượng vàng Oscar 2017. Nguồn: disneyanimation.com Moana mất 5 năm để hoàn thành với một ekip làm phim chuyên nghiệp và quen thuộc trong giới làm phim hoạt hình. Mỗi người trong số họ đều đã thắng hoặc có ít nhất một đề cử Oscar. Ngoài biên kịch Jared Bush (phim Zootopia), phim còn có sự cộng tác của 4 đạo diễn là Ron Clements, John Musker, Don Hall và Chris Williams. Moana là bộ phim hoạt hình thể loại nhạc kịch, phiêu lưu, xoay quanh hành trình vượt đại dương đi tìm hòn đảo huyền bí, cùng tham gia với cô bé là á thần Maui huyền thoại. Trên chuyến hành trình giữa lòng đại dương để tìm lại linh hồn bị đánh cắp, đã có lần Moana nghi ngờ bản thân mình, Maui thì bị ám ảnh bởi kỳ tích anh hùng trong quá khứ, để rồi cả hai tự hỏi về giới hạn trong khả năng của mình. Sự kết hợp bất đắc dĩ, nhiều lần không ăn ý của cặp đôi khi đương đầu với đại dương cùng những sinh vật huyền diệu khổng lồ mang lại cho khán giả tiếng cười và sự suy ngẫm. Moana ăn điểm với đồ họa phim vô cùng xuất sắc . Nguồn: disneyanimation.com Điểm tuyệt vời nhất của bộ phim chính là khâu hình ảnh. Đồ họa phim vô cùng xuất sắc và tỉ mỉ. Chắc hẳn, những khán giả đã xem Moana cũng sẽ thấy được sự kì công của ekip làm phim trong phần kỹ xảo. Người xem có thể hoàn toàn cảm nhận sự ấm nóng của ánh sáng mặt trời, tiếng sóng rì rầm, những ngọn gió mát rượi thổi qua từng hàng dừa, sự dữ dội của đại dương trong cuộc hành trình mà nhân vật Moana phải trải qua. Nếu như các nàng công chúa của Disney truyền thống luôn là một người có xuất thân hoàng gia, thì Moana chỉ là con của một tù trưởng trên một đảo nhỏ. Moana chính là một công chúa Disney thời đại mới, một biểu tượng cho sự lột xác của Disney sau những lối mòn. Moana cho khán giả thấy được sự khao khát vượt ra khỏi “vị trí” mà người khác sắp đặt. Không dài dòng, không có tình cảm hoàng tử – công chúa, bộ phim chủ yếu tập trung vào cuộc hành trình của Moana cùng á thần Maui. Những gì bộ phim truyền tải đi là thông điệp về ý chí quyết tâm và lòng can đảm. Thỉnh thoảng, bạn sẽ nghi ngờ bản thân như Moana, vẫn sẽ thất bại dù là người có kinh nghiệm như á thần Maui, nhưng đó là điều tất yếu để dẫn đến thành công. Hiểu rõ bản thân muốn gì, mạnh mẽ cố gắng hết sức để đạt được nó và không sợ thất bại mới là chìa khóa của thành công. Moana là nàng công chúa Disney thời đại mới. Nguồn: disneyanimation.com  Sau Zootopia, Moana tiếp tục đưa Disney trở thành đơn vị phát hành không có đối thủ trong năm 2016 với hàng loạt bom tấn như The Jungle Book, Doctor Strange, Star Wars… Tuy mở màn cho chuỗi chiến thắng đầu tiên của nhà Chuột và nhận được rất nhiều sự ủng hộ của khán giả nhưng Zootopia lại không được đánh giá cao tại Oscars 2017. Một trong những ứng viên được người hâm mộ dự đoán sẽ giành chiến thắng là Finding Dory của hãng Pixar. Tuy nhiên, so với phần trước là Finding Nemo thì Fiding Dory khiến nhiều người hụt hẫng về cuộc phiêu lưu giữa đại dương bỗng chốc thu nhỏ chỉ trong lồng kính viện hải dương. Ở chiều ngược lại, Moana của Disney lại như một phép so sánh gợi nhớ về một đại dương xanh thẳm mênh mông. Cùng với những thành tích ấn tượng từ khi ra mắt đến nay: tổng doanh thu hiện tại là 287.5 triệu USD, Rotten Tomatoes đánh giá 95% tươi (fresh), IMDb chấm 8.1, cùng những lời đánh giá tích cực từ hầu hết nhà phê bình, Moana sẽ là ứng viên “nặng ký” mà các hãng phim khác phải dè chừng. Moana thu hút người xem bởi đồ họa sắc nét. Nguồn: disneyanimation.com Cuộc đua cho tượng vàng Oscars 2017 chưa bao giờ nóng đến thế. Danh sách 27 phim hoạt hình tranh đề cử Oscar 2017 đến từ các hãng hoạt hình danh tiếng trên thế giới đã được công bố. Ngày 24/01/2017, hội đồng Oscar sẽ chọn ra 5 ứng cử viên xuất sắc nhất vào Top đề cử cho hạng mục Phim hoạt hình hay nhất Oscars 2017.   Minh N 

giải thưởng Oscar cho Phim hoạt hình hay nhất

Viện Hàn lâm Khoa học Mỹ đã chọn ra 27 bộ phim hoạt hình dài có đủ điều kiện vào vòng sơ loại Oscars 2017. Từ 27 bộ phim này, hội đồng thẩm định sẽ chọn ra top 5 đề cử cho hạng mục Phim hoạt hình hay nhất. Inside Out – Phim hoạt hình hay nhất Oscar 2016 Để có đủ điều kiện tranh giải Oscars cho Phim hoạt hình hay nhất, các bộ phim hoạt hình cần đáp ứng các nhu cầu sau: – Bộ phim có thời lượng hơn 40 phút. – Hoạt động của nhân vật trong phim phải được tạo ra bằng kỹ thuật frame-by-frame (một trong số dạng tạo chuyển động trong hoạt hình). – Cảnh diễn của các nhân vật hoạt hình trong phim phải chiếm ít nhất 75% thời lượng của toàn bộ phim, bao gồm cả hình ảnh động.  1. Cuộc đua của 2 ông lớn: Pixar vs Disney  Finding Dory đang là ứng viên nặng ký cho Phim hoạt hình hay nhất Oscars 2017 Theo danh sách, có thể thấy cuộc đua năm nay sẽ rất gay cấn với cuộc so tài giữa hai ông lớn là Pixar và Disney. Pixar với 8 lần giành chiến thắng ở hạng mục này đang rất tự tin với đại diện năm nay: Finding Dory. Không chỉ dựa vào số lượng tượng vàng Oscars hiện có, Pixar còn khá tự tin với kết quả mà Finding Dory thu được sau đợt công chiếu vào mùa hè 2016. Trong quá khứ, Cars 2 (phần tiếp theo của Cars) đã không đạt được thành công và trở thành bộ phim tệ nhất trong lịch sử làm phim của Pixar. Vì thế, trước khi Finding Dory công chiếu, nhiều nghi ngờ về thành công của bộ phim đã được đưa ra. Bên cạnh đó, việc thành công quá lớn của Finding Nemo cũng tạo cho những nhà làm phim của Finding Dory nhiều áp lực và lo lắng. Gạt mọi nghi ngờ của giới chuyên môn, Finding Dory thẳng tiến phòng vé các nước trên thế giới và trở thành bộ phim thứ 3 đạt doanh thu 1 tỷ USD trong năm 2016.              2 chiến binh của Disney trong cuộc đua Oscars 2017 Tuy nhiên, Pixar vẫn phải dè chừng với sự trở lại của Disney, ông vua trong ngành hoạt hình thế giới. Disney tham gia cuộc đua Oscars 2017 với 2 bom tấn là Zootopia và Moana. Với doanh thu 1 tỷ USD, Zootopia đã tạo nên cơn sốt phòng vé mùa hè năm nay và đưa danh tiếng của Disney trong mảng phim hoạt hình trở lại sau nhiều năm vắng bóng. Bom tấn thứ hai là Moana, một nàng công chúa mới do Disney tạo ra, một bộ phim theo phong cách truyền thống của hãng. Dù danh sách được công bố trước khi Moana chính thức công chiếu nhưng giới chuyên môn đã đưa ra những đánh giá tích cực cho bộ phim này. Theo đó, ngoài vị trí là một trong những ứng viên nặng ký cho giải thưởng Phim hoạt hình hay nhất, Moana còn có khả năng giành được các giải thưởng phụ như Bài hát trong phim hay nhất. Với 2 chiến binh mạnh mẽ này, Disney đang có cơ hội lớn trong việc giành tượng vàng danh giá Oscars cho Phim hoạt hình hay nhất.  2. Những cái tên bất ngờ cho Oscars 2017  Kubo & The Two Strings – Luồng gió mới của Oscars 2017 Bên cạnh những ứng cử viên nặng ký, những cái tên sau đây có khả năng sẽ tạo ra bất ngờ cho Oscars năm nay. Trong cuộc đua này, Kubo & The Two Strings của Laika được dự đoán sẽ tạo áp lực cho 2 ông lớn trong mảng phim hoạt hình. Với nội dung và hình ảnh đầy cảm xúc cùng phương pháp làm phim Stop Motion, Kubo & The Two Strings đã mang đến một luồng gió mới cho hoạt hình thế giới và làm cho Oscars năm nay thêm phần thú vị. Một cái tên đáng chú ý khác đến từ Ghibli studio, xưởng phim hoạt hình từng tạo ra chấn động Oscars 2003 với thành tích của Spirited Away. Năm nay Ghibli với The Red Turtle tuy không gây được tiếng vang lớn nhưng vẫn sẽ là một ẩn số cho Oscars 2017.               Hai đại diện đến từ Nhật Bản tham gia cuộc đua Oscars 2017 Ngoài The Red Turtle, niềm hy vọng tiếp theo của hoạt hình Nhật Bản là Your Name. Với thành tích là phim nội địa ăn khách thứ ba mọi thời đại, bộ phim được kỳ vọng sẽ lập lại thành tích mà Hayao Miyazaki với Spirited Away đã đạt được. Your Name – cơn sốt phòng vé Nhật Bản và gây chú ý trên toàn thế giới với việc thu về 3 tỷ yên chỉ sau 3 ngày công chiếu. Bộ phim còn giữ vị trí quán quân phòng vé trong 9 tuần liên tiếp và nhà sản xuất phải tăng thêm suất chiếu. Liệu Your Name có thể làm nên điều đặc biệt khi trở thành bộ phim hoạt hình Nhật Bản không xuất xứ từ Ghibli nhưng vẫn lọt vào top đề cử và chiến thắng giải Oscars cho Phim hoạt hình hay nhất không?  Những cái tên còn lại trong danh sách tuy không được kỳ vọng nhiều nhưng vẫn có khả năng tạo ra những điều thú vị cho hạng mục Phim hoạt hình hay nhất Oscars 2017. Hãy cùng chờ xem ai sẽ là cái tên cuối cùng được xướng lên trong đêm trao giải nhé.  Danh sách chính thức 27 bộ phim hoạt hình lọt vào vòng sơ tuyển của Oscars 2017: 1 The Angry Birds Movie 15 Mustafa & the Magician 2 April and the Extraordinary World 16 My Life as a Zucchini 3 Bilal 17 Phantom

Academy Awards

Giải Oscar cho Phim hoạt hình hay nhất – Academy Award for Best Animated Feature, là một trong số những hạng mục được trao thưởng hằng năm dành riêng cho những bộ phim hoạt hình xuất sắc nhất. Giải Viện Hàn lâm hay còn gọi là giải Oscar – Academy Awards, là lễ trao giải do Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh (Academy of Motion Picture Arts and Sciences AMPAS) tổ chức thường niên hằng năm ở Hoa Kỳ, dành cho những bộ phim xuất sắc nhất và những thành tựu, những cống hiến đạt được trong suốt một năm. >>> Có thể bạn muốn tìm hiểu: Khóa học làm phim hoạt hình 3D  Giải Oscar cho Phim hoạt hình hay nhất lần đầu tiên được trao tặng tại Lễ trao giải Oscar lần thứ 74, tổ chức vào ngày 24/3/2002. Nguồn: cinemablend.com Tiêu chuẩn để ứng cử và điều kiện trao giải  Tác phẩm hoạt hình được Viện Hàn lâm công nhận trao giải khi: – Bộ phim có thời lượng hơn 40 phút. – Hoạt động của nhân vật trong phim phải được tạo ra bằng kỹ thuật frame-by-frame (một trong số dạng tạo chuyển động trong hoạt hình). – Đa số các nhân vật chính trong phim phải là nhân vật hoạt hình. – Cảnh diễn của các nhân vật hoạt hình trong phim phải chiếm ít nhất 75 phần trăm thời lượng của toàn bộ phim, bao gồm cả hình ảnh động. Giải Oscar cho Phim hoạt hình hay nhất lần đầu tiên được trao tặng là cho những bộ phim hoạt hình được sản xuất vào năm 2001. Những bộ phim được đề cử cho giải Oscar hay những người thắng giải và được trao giải thưởng đều được lựa chọn bởi các thành viên của AMPAS. Thông thường, giải Oscar cho Phim hoạt hình hay nhất được bình chọn bằng cách chia ra từng 3 bộ một, so sánh rồi chọn ra tác phẩm chiến thắng giải. Nếu có nhiều hơn 15 bộ phim hoạt hình được đề cử cho giải Oscar, thì phải chia ra thành 5 bộ một nhóm rồi bình chọn. Nghĩa là phải trải qua 6 lần bình chọn mới có thể chọn ra được bộ phim hoạt hình xuất sắc nhất để trao giải. [Trailer] Beauty and the Beast – Người Đẹp Và Quái Vật Một bộ phim hoạt hình có thể được đề cử cho nhiều hạng mục giải thưởng khác nhau, tuy nhiên rất hiếm phim làm được điều đó. Phim Beauty and the Beast (1991) là bộ phim hoạt hình đầu tiên được đề cử giải Oscar cho Phim xuất sắc nhất. Nguồn: pixar.wikia.com Hai bộ phim hoạt hình Up (2009) và Toy Story 3 (2010) cũng nhận được đề cử cho hạng mục Phim hoạt hình xuất sắc nhất sau khi Viện Hàn lâm mở rộng số lượng phim ứng cử. Nguồn: youtube.com Waltz with Bashir (2008) là bộ phim hoạt hình đầu tiên và duy nhất được đề cử giải Oscar cho Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất (mặc dù bộ phim không được đề cử cho hạng mục Phim hoạt hình hay nhất). Nguồn: impawards.com Pixar là hãng sản xuất phim hoạt hình có 10 bộ phim được đề cử, hầu như chiếm hết các hạng mục giải thưởng tại lễ trao giải Oscar năm 2008 (có 8/10 bộ phim đề cử đoạt giải). Cars 2 (2011), Monsters University (2013) và The Good Dinosaur (2015) là 3 bộ phim hoạt hình duy nhất họ đã sản xuất mà không được đề cử ở bất cứ hạng mục trao giải nào kể từ khi Pixar thành lập. Trước đây, AMPAS không trao tặng giải thưởng Oscar cho phim hoạt hình với lý do là có quá ít bộ phim hoạt hình được sản xuất. Thay vào đó, Viện sẽ trao tặng giải Oscar đặc biệt cho các tác phẩm đặc biệt. Walt Disney Pictures là hãng thường xuyên chiếm được hạng mục giải thưởng này. Nguồn: roommatespeelandstick.com.au Bộ phim hoạt hình Snow White and the Seven Dwarfs – Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn do Walt Disney sản xuất, đã được trao giải Oscar cho Thành tựu đặc biệt xuất sắc nhất vào năm 1938. Hai bộ phim Who Framed Roger Rabbit (1989) và Toy Story (1996) cũng giành được giải Oscar cho Thành tựu đặt biệt xuất sắc với thể loại phim gồm cả người đóng và hoạt hình. Nguồn: dvd.box.sk Trước khi giải thưởng này xuất hiện, chỉ có duy nhất một bộ phim hoạt hình được đề cử cho Phim xuất sắc nhất – Best Picture là Beauty and the Beast ở Lễ trao giải Oscar năm 1991, do Walt Disney Pictures sản xuất. Vào năm 2001, các đối thủ cạnh tranh với Disney bắt đầu xuất hiện trên thị trường phim hoạt hình, chẳng hạn như DreamWorks Animation, làm gia tăng đáng kể số lượng phim sản xuất và đăng ký giải hàng năm. Những người trong ngành công nghiệp hoạt hình và người hâm mộ bày tỏ hy vọng rằng, uy tín của giải Oscar và hiệu ứng thúc đẩy từ các phòng vé sẽ khuyến khích tăng cường việc sản xuất phim hoạt hình. Một số thành viên trong ngành và người hâm mộ đã phê bình về hạng mục giải thưởng này, tuy nhiên, điều đó có thể được xem như là nhằm ngăn chặn việc các bộ phim hoạt hình khác có cơ hội chiến thắng giải Oscar cho Phim xuất sắc nhất. Đặc biệt, tại buổi lễ trao giải Oscar lần thứ 81, bộ phim hoạt hình WALL-E đã giành được giải thưởng Oscar cho Phim hoạt hình xuất sắc nhất. Tuy nhiên trước đó, bộ phim không nhận được đề cử cho hạng mục giải thưởng trên, mặc dù bộ phim nhận được rất nhiều đánh giá tích cực từ các nhà phê bình và khán giả. WALL-E được xem là một trong những

CMAVN Brad Bird

Đằng sau những chiến thắng của phim hoạt hình Pixar ở Lễ trao giải Oscars hàng năm là công sức của những “phù thủy” tài ba và sáng tạo, đội ngũ làm phim hoạt hình của hãng. Cùng tìm hiểu xem họ là ai. Andrew Stanton – Pixar giống như một phim trường không có giáo viên. Mọi người ở đây thực sự muốn bạn chấp nhận mọi rủi ro để thành công – Nhà làm phim từng đoạt giải Oscarss Andrew Stanton đã lớn lên ở Rockport, Massachusetts. Ông được đào tạo và nghiên cứu về nhân vật hoạt hình tại Viện California của Nghệ thuật ở Los Angeles. Sau khi tốt nghiệp, Stanton bắt đầu làm việc như một nhà văn trên truyền hình với loạt Mighty Mouse, the New Adventures (1987). Năm 1990, ông có phim hoạt hình thứ hai trong sự nghiệp và trở thành nhân viên thứ chín của Pixar Animation Studios. Stanton đã đến để giúp thiết lập Pixar trở thành một trong những hãng phim hoạt hình hàng đầu thế giới. Ông là nhà thiết kế và biên kịch của Toy Story (1995) và được đề cử cho giải Oscars. Ông tiếp tục là đạo diễn và biên kịch cho A Bug’s Life (1998), Finding Nemo (2003) và WALL-E (2008). Đặc biệt, với Finding Nemo và Wall-E, ông đã nhận được giải Oscars cho Phim hoạt hình hay nhất. Ra mắt vào 30/5/2003 với kinh phí 94 triệu USD và doanh thu 864,625,978 USD, Stanton đã cùng các cộng sự của mình tạo ra Finding Nemo thu hút sự quan tâm cùng sự đón nhận tích cực của công chúng và chuyên gia. Tại lễ trao giải Oscars, Finding Nemo đã nhận được danh hiệu Phim hoạt hình hay nhất năm. Mặc dù trước khi xuất xưởng, ông cho biết phim chỉ nhắm đến một đối tượng nhất định. Qua đó có thể thấy, tuy chủ đề, mô típ hành trình tìm kiếm đã quá cũ, nhưng chính ý nghĩa về tình phụ tử mà phim truyền tải đã đưa Finding Nemo chạm đến trái tim người xem. Wall-E có kinh phí 180 triệu USD, được thực hiện dựa theo ý tưởng của đạo diễn Andrew Stanton về một Trái Đất đang chết dần trong biển rác; nhân loại đã từng sinh sống trên hành tinh xinh đẹp này phải rời bỏ nó. Khởi chiếu tại Mỹ và Canada vào 27/6/2008, Wall-E đã mang lại doanh thu toàn cầu là 502.690.709 USD cùng với đó là danh hiệu Phim hoạt hình hay nhất tại lễ trao giải Oscars. Ngoài ra, Wall-E còn tạo ra một bất ngờ lớn khi góp mặt trong danh sách đề cử hạng mục Phim hay nhất tại Oscars. Với đề cử này, chủ tịch Viện Hàn lâm Dick Cook đã phát biểu “Nếu không làm điều này, tôi không tin rằng chúng ta đã cho bộ phim đúng giá trị nó đáng có”. Brad Bird Ra đời vào 24/9/1957 ở Kalispell, Montana, Mỹ với tên đầy đủ là Phillip Bradley Bird, ông được biết đến với vai trò đạo diễn và biên kịch cho bộ phim The Simpsons (1989), The Incredibles (2004) và Ratatouille (2007). Trong chuyến tham quan đến Walt Disney Studios năm 11 tuổi, Bird đã nói rằng vào một ngày nào đó ông ấy sẽ trở thành một phần của đội ngũ làm phim hoạt hình ở đây. Và ngay sau đó, ông bắt đầu sản xuất một phim hoạt hình ngắn với thời lượng 15 phút. Sau 2 năm, Bird đã hoàn thành xong bộ phim của mình và gây ấn tượng với công ty sản xuất phim hoạt hình. Ở tuổi 14, khi vừa mới học trung học, Bird đã nhận được sự tư vấn của Milt Kahl, một trong những huyền thoại của Disney. Bird gọi lại cho nhà phê bình Milt Kahl để trình bày ý tưởng của mình. Kahl đã chỉ ra những điểm còn thiếu sót trong ý tưởng để Bird có thể tiến bộ hơn. Ông đã nhận được học bổng của Disney để tham gia Viện Nghệ thuật California, nơi mà ông đã gặp và trở thành bạn bè với nhà làm phim hoạt hình tương lai, John Lasseter – giám đốc điều hành Pixar sau này. Năm 2000, ông quay lại hợp tác với John Lasseter ở Pixar, nơi ông sẽ phát triển những bộ phim hoạt hình tiếp theo của mình đó là The Incredibles (2004) và Ratatouille (2007). Cả hai bộ phim đều mang về doanh thu cao nhất cho Pixar và mang đến cho Bird 2 giải Oscars ở hạng mục Phim hoạt hình hay nhất và một đề cử ở hạng mục Kịch bản gốc xuất sắc nhất. Ban đầu, The Incredibles được đầu tư sản xuất như một phim hoạt hình truyền thống dưới tên của hãng Warner Bros. Tuy nhiên, sau khi hãng này đóng cửa bộ phận làm phim hoạt hình, Brad Bird – đạo diễn của bộ phim đã đem kịch bản đến Pixar và tiếp tục dự án này với John Lasseter – giám đốc sáng tạo của Pixar. Dưới tài năng của Brad Bird và sự trợ giúp của Pixar, vào 5/11/2004, The Incredibles đã ra mắt với kinh phí sản xuất là 92 triệu USD. Sau khi gây ra một cơn sốt trong giới hoạt hình, The Incredibles đã thu về số tiền phòng vé là 631 442 092 USD. Tại lễ trao giải Oscars năm 2004, The Incredibles đã giành giải Phim hoạt hình hay nhất và Biên tập âm thanh xuất sắc nhất cho Michael Silvers – Randy Thom Sau The Incredibles, Brad Bird bắt tay vào sản xuất Ratatouile, một bộ phim về chú chuột có đam mê về nghề bếp. Hình ảnh trong phim được vẽ bằng máy tính do Pixar sản xuất. Phát hành vào 29/6/2007 với kinh phí 150 triệu USD, Ratatouile đã nhanh chóng thu về một lượng

Ronnie del Carmen va Peter Docter

Inside out của hãng phim Pixar đã giành được danh hiệu Phim hoạt hình hay nhất tại lễ trao giải Oscar lần thứ 88, năm 2016. Vậy đứng sau thành công của Inside out là những ai? Họ đã làm như thế nào để đưa Inside out chạm vào cảm xúc của người xem? Trở lại sau hai năm vắng bóng, Pixar không làm người hâm mộ thất vọng khi có sự đầu tư kỹ càng từ hình ảnh đến kịch bản để cho ra đời Inside out vào mùa hè 2015. Bộ phim thành công khi đã chạm tới tận cùng cảm xúc của người xem, cho họ lắng đọng với những khoảng thời gian ký ức của bản thân. Bên cạnh đó, ngay khi vừa xuất xưởng, Inside out đã thu về 91 triệu USD và trở thành phim hoạt hình ăn khách nhất mọi thời đại của hãng Pixar, cao hơn doanh thu của The Incredibles, Finding Nemo và Up. Mới đây nhất, tại lễ trao giải Oscar lần thứ 88, năm 2016, Inside out đã đánh bật các ứng viên nặng ký khác như Anomalisa, Boy & the World, When Marnie was there, Shaun the Sheep Movie. Không những vậy, Inside out còn được đề cử ở hạng mục Kịch bản gốc hay nhất. [spacer] Một bản nhạc về ký ức của giai đoạn trưởng thành Inside out là bộ phim kể về cô bé Riley 11 tuổi chuyển nhà từ Minnesota đến San Francisco. Rời xa ngôi nhà thân quen và những người bạn thuở nhỏ để tới một nơi xa lạ, điều này đã ảnh hưởng đến tâm lý và cảm xúc của cô bé. Như tất cả mọi người, giai đoạn trưởng thành của Riley chịu sự chi phối của năm cảm xúc đặc trưng: Vui vẻ (Joy), Buồn bã (Sadness), Chảnh chọe (Disgust), Giận dữ (Anger), Sợ hãi (Fear). >>> Xem thêm: Inside Out và 8 bài học cảm xúc Inside out như một bản nhạc về sự trưởng thành, về những niềm vui, nỗi buồn đã từng xảy ra trong quá khứ. Những ký ức dù vui hay buồn cũng sẽ bị chìm sâu trong quên lãng và biến mất như chưa từng xuất hiện. Tuy nhiên cũng có những kỷ niệm luôn bên cạnh chúng ta như những người bạn. Giai đoạn trưởng thành luôn phải đối đầu với những trải nghiệm khó khăn, gian khổ và có cả nước mắt. Nhưng chỉ cần sống với cảm xúc thật của bản thân thì chúng ta mới có những ký ức tuyệt đẹp và trong sáng nhất. Đằng sau thành công của Inside out là sự cố gắng không ngừng nghỉ của đội ngũ làm phim, đặc biệt là những họa sĩ, đạo diễn. Trong đó, chúng ta phải nhắc đến tài năng và sự hợp tác hoàn hảo của họa sĩ Ronnie del Carmen và đạo diễn Pete Docter. [spacer] Người “nhào nặn” một Inside out giàu cảm xúc [spacer] Pete Docter – đạo diễn tài ba của hãng phim hoạt hình Pixar. [spacer] Pete Docter là một đạo diễn, họa sĩ hoạt hình, biên kịch, nhà sản xuất và diễn viên lồng tiếng người Mỹ. Là một người tài năng khi là nhân tố quan trọng trong quá trình sáng tạo ra những tác phẩm xuất sắc của Pixar như Monster Inc., Up… Ông là một trong 3 biên kịch chính đằng sau ý tưởng của Toy Story, và phần nào xây dựng nhân vật Buzz Lightyear dựa trên chính mình. Ông từng nhận được 6 đề cử Oscar với một chiến thắng trong hạng mục Phim hoạt hình hay nhất dành cho Up. Trước khi gia nhập Pixar, ông từng tạo ra 3 bộ phim hoạt hình không sử dụng công nghệ máy tính là Next Door, Palm Spring và Winter. Ông tự học hoạt hình, tự làm flip book và các đoạn hoạt hình ngắn bằng một máy quay phim gia đình. Khi tạo hình cho nhân vật, ông thường đặt một tấm gương trên bàn và nhìn vào đó để tạo ra khuôn mặt cho các nhân vật của mình. [spacer] Người cộng sự hoàn hảo của Pete Docter [spacer] Họa sĩ Ronnie del Carmen – đồng đạo diễn Inside out Ronnie del Carmen là một họa sĩ người Philippines. Tuy tốt nghiệp ngành quảng cáo nhưng chính đam mê làm phim đã thôi thúc ông chuyển hướng. Năm 2000, ông gia nhập Pixar sau khi kết thúc làm việc cho hãng Warner Bros với loạt phim hoạt hình Batman. Trở thành thành viên của Pixar, ông nắm giữ vị trí giám sát câu chuyện cho tác phẩm Finding Nemo và góp mặt trong những dự án phim hoạt hình lớn của hãng như Ratatouille, Wall-E, Brave… Năm 2009, với vị trí giám sát câu chuyện và nghệ sĩ vẽ storyboard cho phim Up cùng đạo diễn Pete Docter, mở đầu cho sự hợp tác hoàn hảo của cả hai. Thành công của Up đã thôi thúc cả hai tiếp tục hợp tác với câu chuyện mà các nhân vật chính là những cảm xúc bên trong tâm trí mỗi người. Inside out ra đời từ ý tưởng đó và được triển khai trong 5 năm. Nói về quá trình làm việc với Pete Docter, ông cho biết “Thực sự là làm một bộ phim trong 05 năm rất vất vả, với bất kỳ dự án phim nào cũng vậy. Tôi rất may mắn vì Pete Docter biết cách phối hợp ăn ý. Làm việc với anh ấy rất vui. Có nhiều thử thách mà chúng tôi phải đối mặt khi làm việc cùng nhau như việc chọn các nhân vật chính, triển khai ý tưởng câu chuyện. Mỗi cá nhân đều có sự khác biệt riêng nhưng may mắn là tôi và Pete có rất nhiều điểm chung. Bộ phim là một hành trình tuyệt vời của chúng tôi” (Theo Vnexpress.net) >>> Tìm hiểu thêm: Lớp Học

Oscar 2016

Lễ trao giải Oscar lần thứ 88, năm 2016 đã diễn ra vào tối 28/2 (giờ địa phương) tại Nhà hát Dolby ở Los Angeles (Mỹ), quy tụ những ngôi sao lớn của làng điện ảnh thế giới như Leonardo DiCaprio, Brie Larson, Whoopi Goldberg… Điểm nhấn nổi bật của Oscar 88 chính là phần chiến thắng xúc động của Leonardo DiCaprio với vai diễn Hugh Glass trong The Revenant. Sau nhiều lần “lỡ hẹn” với tượng vàng do gặp phải những đối thủ nặng ký, trong lần thứ 88 của giải Oscar, Leo đã có thể chạm tay đến giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc – một trong những giải thưởng danh giá của Oscar. Vai diễn này thực sự là một thử thách đối với tài tử điển trai và đoàn làm phim khi họ phải quay phim trong những hoàn cảnh, địa hình khó khăn. Cùng với tượng vàng của Leo, đoàn làm phim The Revenant cũng đã dành thêm hai giải thưởng danh giá khác là Đạo diễn xuất sắc nhất và Quay phim xuất sắc nhất. Có thể nói, The Revenant đã có một chiến thắng lớn tại Oscar 2016. Giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất thuộc về Brie Larson với vai diễn trong bộ phim Room. Tuy có nhiều thành công với các vai diễn trước đó nhưng với vai diễn cô gái trẻ bị bắt cóc và hãm hiếp trong Room, Brie Larson mới thực sự tỏa sáng. Sau khi nhận giải thưởng, người đẹp sẽ tiếp tục trở lại Việt Nam để cùng đoàn làm phim Kong quay những phân cảnh tiếp theo ở Ninh Bình. Giải thưởng Bộ phim hay nhất được Oscar 2016 gọi tên chính là Spotlight. Dựa trên sự kiện có thật, bộ phim là câu chuyện chân thật về cuộc đấu tranh của nhóm nhà báo Mỹ nhằm vạch trần vụ bê bối tình dục trong hệ thống nhà thờ Mỹ làm chấn động thế giới vào đầu thế kỷ 21. Với những thước phim giản dị nhưng lay động lòng người, những người làm phim như muốn nhắn gửi đến những nhà báo về tinh thần tìm kiếm, phơi bày sự thật còn ẩn giấu trong bóng tối ra ánh sáng. Trước đêm diễn ra Oscar, Spotlight đã được xem là một đối thủ nặng ký cho giải thưởng Bộ phim hay nhất. Về mảng phim hoạt hình, Inside Out với những thành công trong năm qua đã đánh bật những ứng viên còn lại để giành danh hiệu Phim hoạt hình hay nhất, trở thành tác phẩm thứ tám của Pixar được vinh danh Oscar ở hạng mục này. Inside out của Pixar là bộ phim hoạt hình gây sốt mùa phim hè 2015, với doanh thu ra mắt cao nhất mọi thời đại của hãng. Bên cạnh đó, bộ phim với những nhân vật về cảm xúc trong tâm trí con người đã trở thành một trào lưu trong giới trẻ. Với những thành tích đáng nể, Inside out quả thật không có đối thủ trong lễ trao giải Oscar 2016. Ngoài ra, các giải thưởng khác như Nam, nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất, Biên kịch xuất sắc nhất, Ca khúc trong phim xuất sắc nhất, Nhạc phim xuất sắc nhất,… cũng được trao cho những tên tuổi xứng đáng với những gì đã đóng góp cho điện ảnh thế giới năm qua. Oscar là lễ trao giải dành cho lĩnh vực điện ảnh do Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh Hoa Kỳ tổ chức thường niên. Lễ trao giải này đã vinh danh rất nhiều diễn viên, đạo diễn, ekip làm phim,… xuất sắc và có nhiều cống hiến cho điện ảnh thế giới trong năm. [spacer] DANH SÁCH CÁC GIẢI THƯỞNG OSCAR LẦN THỨ 88, NĂM 2016: [spacer] Phim hay nhất “The Revenant” “Spotlight” “Room” “Mad Max: Fury Road” “The Big Short” “Brooklyn” “Bridge of Spies” “The Martian” Nam diễn viên chính xuất sắc Leonardo DiCaprio, “The Revenant” Michael Fassbender, “Steve Jobs” Eddie Redmayne, “The Danish Girl” Bryan Cranston, “Trumbo” Matt Damon, “The Martian” Nữ diễn viên chính xuất sắc Brie Larson, “Room” Saoirse Ronan, “Brooklyn” Cate Blanchett, “Carol” Charlotte Rampling, “45 Years” Jennifer Lawrence, “Joy” Nam diễn viên phụ xuất sắc Sylvester Stallone, “Creed” Tom Hardy, “The Revenant” Mark Rylance, “Bridge of Spies” Christian Bale, “The Big Short” Mark Ruffalo, “Spotlight” Nữ diễn viên phụ xuất sắc Alicia Vikander, “The Danish Girl” Kate Winslet, “Steve Jobs” Rooney Mara, “Carol” Jennifer Jason Leigh, “The Hateful Eight” Rachel McAdams, “Spotlight” Đạo diễn xuất sắc nhất George Miller, “Mad Max: Fury Road” Alejandro G. Inarritu, “The Revenant” Adam McKay, “The Big Short” Lenny Abrahamson, “Room” Tom McCarthy, “Spotlight” Kịch bản chuyển thể hay nhất “The Big Short” “Brooklyn” “Carol” “Room” “The Martian” Kịch bản gốc hay nhất “Spotlight” “Ex Machina” “Bridge of Spies” “Straight Outta Compton” “Inside Out” Phim hoạt hình hay nhất “Inside Out” “Anomalisa” “Boy & the World” “When Marnie Was There” “Shaun the Sheep Movie” Phim tài liệu dài hay nhất “Amy” “Cartel Land” “The Look of Silence” “What Happened, Miss Simone?” “Winter on Fire: Ukraine’s Fight for Freedom” Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất “Son of Saul” (Hungary) “Theeb” (Jordan) “Embrace of the Serpent” (Colombia) “Mustang” (Pháp) “A War” (Đan Mạch) Quay phim đẹp nhất “The Revenant” “The Hateful Eight” “Carol” “Mad Max: Fury Road” “Sicario” Bài hát trong phim hay nhất “Til It Happens to You” – The Hunting Ground “Earned It” – Fifty Shades of Grey “Writing’s on the Wall” – Spectre “Simple Song #3” – Youth “Manta Ray” – Racing Extinction Phim tài liệu ngắn hay nhất “Body Team 12” “Chau, Beyond the Lines” “Claude Lanzmann: Spectres of the Shoah” “A Girl in the River: The Price of Forgiveness” “Last Day of Freedom” Dựng phim hay nhất “The Revenant” “Mad Max: Fury Road” “The Big Short” “Spotlight” “Star Wars: The Force Awakens” Dựng âm thanh xuất