hoạt hình Pixar sáng tạo

(*) Phương châm của Pixar:” GOING FROM SUCK TO NONSUCK” –  tạm dịch: điều tuyệt vời bắt đầu từ những thất bại. Trong một thế giới bị ám ảnh bởi sự hoàn hảo và sợ hãi trước những sai lầm, có lẽ, sẽ là mỉa mai khi mặc dù sở hữu 11 bộ phim bom tấn, đồng sáng lập hoạt hình Pixar, Chủ tịch Ed Catmull mô tả quá trình sáng tạo tại Pixar là “bắt đầu từ những điều tệ hại và kết thúc bằng những điều tuyệt vời”. Ed Catmull và các đạo diễn làm việc tại hoạt hình Pixar điều cùng quan điểm rằng nhận ra rồi sửa chữa lỗi sai luôn tốt hơn ngăn chăn việc phạm lỗi. Adrew Stanton, đạo diễn của phim hoạt hình chuyên nghiệp Finding Nemo và WALL-E chia sẻ: “Về cơ bản, có thể giải thích là chúng ta luôn có những sai sót, chúng ta hãy thừa nhận chúng và đừng sợ hãi”. Đây là cách làm việc mà mọi người nên thường xuyên áp dụng. Đồng sáng lập Pixar- Edcatmull Thông thường Pixar không bắt đầu một bộ phim hoạt hình chuyên nghiệp mới từ kịch bản. Ý tưởng bộ phim được khởi nguồn từ storyboard và họ phải trải qua quá trình xử lý hàng ngàn những vấn đề để đưa bộ phim hoạt hình từ con số “ 0” đến tuyệt vời. Đối với những họa sĩ kể chuyện làm việc tại hoạt hình Pixar, storyboard chính là “phiên bản truyện tranh vẽ bằng tay” của một bộ phim hoạt hình chuyên nghiệp, là bản thiết kế cho nhân vật – hành động. Storyboard là những tờ giấy trắng có kích thước 3×8 inch (7.5 x 20 cm) mà trên đó, các nhà hoạ sĩ truyện của hoạt hình Pixar phác thảo ý tưởng. Như Joe Ranft, một trong những hoạ sĩ truyện hàng đầu tại Pixar, đã chia sẻ: “Đôi khi, lần thử đầu tiên đã đạt được hiệu quả mong muốn, trong khi những lần khác đòi hỏi hàng chục lần thử nghiệm hoặc nhiều hơn.” Phải kiên trì! Pixar đã sử dụng 27.565 storyboard cho A Bug’s Life, 43.536 cho Finding Nemo, 69.562 cho Ratatouille và con số 98.173 thuộc về WALL-E. Một phần trong đồ án storyboard của học viên Nguyễn Gia Lộc- Comic Media Academy Với quá trình phê bình khắc khe này sẽ tạo ra những thay đổi lớn cho bộ phim hoạt hình. Nó tựa một vòng tuần hoàn, cứ tiếp diễn, tiếp diễn cho đến khi kịch bản đầu tiên được phê duyệt. Phiên bản đầu của bộ phim hỏa hình chuyên nghiệp sẽ được tạo ra trên những thức được gọi là “ những cuộc băng”. “ Những cuộc băng” này chứa các storyboard kết hợp với bản thu thanh và sẽ được trình chiếu trong nội bộ hoạt hình Pixar trước khi được gia công lại bằng digital với những công nghệ tiên tiến và đắt đỏ. “Tất cả các bộ phim hoạt hình thuộc lứa đầu của tôi đều thất bại thảm hại”, Catmull nói. Các họa sĩ kể chuyện và những chuyên gia sẽ email cho đạo diễn để trình bày ý kiến của họ, những điểm họ thích, những điểm họ không thích, lý do kèm theo và những ý kiến đóng góp để thay đổi bộ phim hoạt hình sau đó. Trên thực tế, các họa sĩ kể chuyện chia sẻ rằng, các bộ phim của hoạt hình Pixar đều dở tệ trong suốt quá trình cho đến khâu sản xuất cuối cùng. Vì các vấn đề sẽ liên tiếp được phát hiện và xử lý. Finding Nemo mắc một lỗi nghiêm trọng trong một loạt các cảnh hồi tưởng mà khán giả thử nghiệm không hề nhận ra. Còn kịch bản của Toy Story phải viết lại hoàn toàn trong một năm trước khi bộ phim ra mắt. (Ngày ra mắt phim của hoạt hình Pixar được đặt cố định, đóng vai trò như một sự ràng buộc.) Những gì chúng ta nhìn thấy không phải là những tuyệt tác dễ dàng đạt được. Phải trải qua một quá trình lặp đi lặp lại không mệt mỏi, cần mẫn cùng với biết bao đêm thức trắng, những bộ phim mới bắt đầu hoàn thiện. Tuỳ theo hình thức của bộ phim hoạt hình Pixar mà chủ nghĩa cầu toàn không nhất thiết sẽ cản trở sự sáng tạo. Ngày càng có nhiều nghiên cứu về tâm lý học đã tiết lộ rằng, sự cầu toàn tồn tại dưới hai hình thức: lành mạnh và không lành mạnh. Theo tâm lý học, đặc điểm của một chủ nghĩa cầu toàn lành mạnh bao gồm phấn đấu để đạt được sự xuất sắc và mong muốn người khác cũng theo đuổi những chuẩn mực tương tự, lập kế hoạch cho tương lai và có kỹ năng tổ chức tốt. Chủ nghĩa cầu toàn lành mạnh được dẫn dắt một cách chủ quan, được thúc đẩy bởi những giá trị cá nhân mạnh mẽ.  Ngược lại, chủ nghĩa cầu toàn không lành mạnh chịu các tác động khách quan. Các mối bận tâm bên ngoài xuất phát từ nhận thức áp lực từ gia đình, nhu cầu đồng cảm, xu hướng làm sáng tỏ những gì đã diễn ra, hoặc sự lo lắng tột độ về việc mắc sai lầm. Người theo chủ nghĩa cầu toàn lành mạnh thể hiện mối quan ngại thấp đối với những yếu tố khách quan này. Mục đích của việc mô tả quá trình sáng tạo tại hoạt hình Pixar không phải để nói rằng, mọi người nên tuân thủ tuyệt đối một quy trình như vậy. Ví dụ như, không phải lúc nào cũng có một đội ngũ họa sĩ kể chuyện để đánh giá phiên bản đầu tiên của tất cả các tác phẩm. Hoặc là, chúng ta cũng không nên đầu quá nhiều cảm xúc, thời gian cho

Âm thanh đóng vai trò như thế nào trong một bộ phim hoạt hình? Theo các nhà làm phim của Viện hàn lâm điện ảnh Mỹ, trong một bộ phim hình ảnh sẽ chiếm 85%, còn lại 15% thuộc về âm thanh. Điều đó cho ta thấy, sức mạnh vô hình của âm thanh trong việc lôi kéo sự chú ý của người xem. Âm thanh là vũ khí chuyển tải nhiều cảm xúc nhất cho làm phim hoạt hình Vào thời đại công nghệ, âm thanh được xem như là một vũ khí sắc bén nhất mà các nhà làm phim hoạt hình hay khoa học giả tưởng sử dụng để mang đến cảm xúc cho người xem, bên cạnh những kỹ xảo máy tính khác. Mặc dù, điện ảnh là môn nghệ thuật của hình ảnh nhưng âm thanh lại đóng vai trò rất lớn trong sự thành công của một tác phẩm. Hãy thử tưởng tượng, một bộ phim chỉ có hình ảnh có thể khiến bạn tập trung theo dõi và cảm thụ hay không? Dù cho nội dung hình ảnh rất tốt nhưng ý đồ và cảm xúc mà phim muốn truyền tải đến khán giả vẫn không đạt hiệu quả nhiều khi thiếu mất âm thanh. Với chỉ 15%, âm thanh có thể giúp đạo diễn chuyển đến 100% sức biểu cảm của tác phẩm đến người xem. Lý do rất đơn giản, bên trong khả năng nhận thức của con người, hình ảnh chỉ tác động gián tiếp tới cảm giác và cảm xúc con người, trong khi âm thanh đóng vai trò trực tiếp nhất, ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm trạng của con người. Có nhiều trường hợp còn cho rằng, âm thanh trong phim nếu được sử dụng hợp lý và phù hợp có thể đóng vai trò như một nhân vật trong phim.   Tái hiện nhạc phim “Lord of Rings” Theo đó, âm thanh trong một bộ phim sẽ gồm 3 thành phần là tiếng động, lời thoại và âm nhạc. Một bộ phim có âm thanh xuất sắc là khi tiếng động phải chân thực, lời thoại phải có duyên, không thừa, không thiếu, âm nhạc phải tinh tế và phù hợp với từng phân cảnh, chất lượng thu âm tốt và hòa âm phải khéo. Nhìn chung, nó giống như một nồi lẩu mà người đạo diễn âm thanh phải biết cách nêm nếm cho đủ vị, không quá tay cũng không nhạt nhòa. Công việc này thực sự không đơn giản. Một số đạo diễn âm thanh tài giỏi thường sử dụng âm thanh như một công cụ để truyền tải nỗi đau của nhân vật trong phim. Họ khiến âm thanh trở thành người dẫn chuyện, nói lên cảm xúc về những điều mà nhân vật trong phim đang trải qua. Thông thường, họ sẽ hạ tông của cuộc hội thoại giữa các nhân vật xuống và dùng âm thanh để thay lời muốn nói của nhân vật nhằm lột tả mạnh mẽ cảm xúc của một phân cảnh hay mạch phim. Đây chính là lúc chúng ta sẽ bắt gặp một nhân vật mới, người không thể nhìn thấy mà chỉ có thể lắng nghe và cảm nhận. Cùng với đó, cách lồng ghép âm thanh vào từng phân đoạn phải phù hợp với bầu không khí trong phim. Trong trường hợp này, bầu không khí có thể được hiểu là cảm xúc chung mà bộ phim muốn truyền tải, cảm xúc khi chuyển từ cảnh này sang cảnh khác. Ngoài ra, một điểm cần chú ý chính là đừng nên cố gắng ràng buộc vào một khái niệm lý thuyết nào đó. Bởi, người ta vẫn thường nói, nếu bạn làm phim hoạt hình  theo chất riêng hay tính cách riêng của mình sẽ càng làm cho tác phẩm hay hơn nhiều. WALL-E minh chứng hùng hồn nhất cho vai trò của âm thanh trong điện ảnh Nhắc đến âm thanh trong làm phim hoạt hình, Wall-E của Pixar luôn được đánh giá cao và nó cũng là minh chứng rõ ràng nhất cho vai trò của âm thanh trong một tác phẩm điện ảnh nói chung, làm phim hoạt hình nói riêng. Hầu như Wall-E không xuất hiện đối thoại giữa các nhân vật, thay vào đó là âm thanh dẫn dắt mạch phim. Từ những tiếng đơn giản đến các tiếng động phức tạp như âm thanh của môi trường đều có những dụng ý riêng.   Ben Burtt trong lễ trao giải The Annie Award Theo thống kê, có đến khoảng 2.600 loại âm thanh đã được sử dụng trong Wall-E. Và chuyên viên thiết kế Ben Burtt là người điều phối âm thanh cho tác phẩm. Người từng đoạt tượng vàng Oscar này đã phải dành nhiều thời gian cùng các cộng sự tìm kiếm những âm thanh chuyển tải được cảm xúc thay ngôn từ. “Bản nhạc” do Ben Burtt dựng nên trong tác phẩm đã tạo ra một thứ ngôn từ không lời khá đặc sắc, hấp dẫn người xem. Burtt cho biết, vai trò của các nhà thiết kế hay đạo diễn âm thanh rất quan trọng trong lĩnh vực phim khoa học viễn tưởng. Ông nói: “Họ phải hiểu lúc nào thì dùng âm thanh nào, vui hay buồn, hưng phấn hay tức giận, cảm thông hay gây chiến.” Điều này thể hiện rõ ràng trong từng nhân vật của Wall-E. Khi chúng di chuyển cánh tay hay xoay quanh, đi lùi, âm thanh đã thể hiện được sức sống và làm bộc lộ cảm xúc của nhân vật khiến người nghe cảm nhận ý nghĩa của từng chuyển động. Cũng theo Ben Burtt, chuyên viên âm thanh cần phải hiểu rõ ý đồ của đạo diễn chính để có thể dựng nên bản âm thanh phù hợp cho toàn bộ phim. Họ phải làm việc với đạo diễn ngay trước khi phim khởi

Vài vấn đề cơ bản về lĩnh vực họa sĩ kể chuyện (story artist), một lĩnh vực tương đối mới tại Việt Nam nhưng không hề lạ trên thế giới.   Nhiều người thường thắc mắc rằng làm sao có thể trở thành một họa sĩ kể chuyện (story artist) hay họa sĩ vẽ phân cảnh (storyboader) và cụ thể về công việc đó. Họ thường biết một ít về hoạt hình, đã xem qua vài cuốn DVD nhưng vẫn cảm thấy hoang mang. Cũng phải thôi, họ đang dần hình dung ra nó và bài viết này hoàn toàn đi  sâu vào những trăn trở của họ. Tuy nhiên, ngay từ khi bắt đầu để ý đến các chuyên gia khác trong ngành công nghiệp hoạt hình,họ thường không biết rõ vai trò của nhóm Phụ trách câu chuyện trong một dự án phim hoạt hình. Một cách trung thực thì họa sĩ kể chuyện (story artist) đều được coi là những nhà làm phim hoạt hình. Tất cả từ đạo diễn, biên tập đến đội ngũ kết xuất đồ họa. Họ không hiện thực hóa câu chuyện. Họa sĩ kể chuyện (story artist) làm rất nhiều việc, đó cũng là những việc mà đồng trong chuyên môn gọi là: Phim Chuyển Thể. Họ có đạo diễn, tác giả, đạo diễn nghệ thuật, biên tập viên, người quay phim (đội ngũ phục trách bố trí và đội ngũ phụ trách ánh sáng) và tất cả những người có khả năng tạo nên thế giới từ con số 0. Dựng cảnh trong bộ phim hoạt hình nổi tiếng Finding Nemo Đầu tiên bàiviết này sẽ cho bạn biết họa sĩ kể chuyện (story artist) và nhóm phụ trách câu chuyện thực sự làm những việc gì. (Ít nhất là trong phạm vi của Pixar). Các họa sĩ kể chuyện (story artist) thực hiện công việc của tất cả mọi người trước khi mọi người thực hiện công việc của mình. Họ là những người đầu tiên đặt nỗ lực vào mỗi phân cảnh trong bộ phim. Có nghĩa là, tạo nên hình hài đầu tiên của một phân cảnh từ kịch bản hoặc đôi khi từ danh sách những khoảnh khắc (những sự kiện sẽ xảy ra trong một cảnh). Họ xem xét hành động của các nhân vật: nhân vật đang nói gì và họ nói thế nào? (Diễn viên) Những nhân vật này trông như thế nào? (Thiết kế nhân vật) Họ xuất hiện ở đâu trong phân cảnh? Họ tương tác với đao cụ gì? (Đạo diễn nghệ thuật) Góc máy ảnh từ đâu? (Đạo diễn hình ảnh) Phải quay bao nhiêu lần để nối những điểm trong câu chuyện liền mạch? Và tốc độ khi kể câu chuyện như thế nào? (Biên tập viên) Ánh sáng như thế nào? Sử dụng ánh sáng hoặc bóng tối như thế nào để đẩy câu chuyện lên cao trào? (Bộ phận phụ trách ánh sáng) Sau đó, bổ sung những ý kiến giúp câu chuyện hay hơn hoặc hài hước hơn. (Tác giả) Storyboard từng góc   Trong hoạt hình, họa sĩ kể chuyện (story artist) biến mọi thứ thành hiện thực, vì vậy, bất cứ thứ gì có thể giúp cải thiện chất lượng bộ phim sẽ được thực hiện bằng mọi giá. Bất kì khía cạnh nào của diễn xuất cũng được nghiên cứu một cách chi tiết. Vì vậy các họa sĩ kể chuyện (story artist) xây dựng những bảng vẽ, làm việc cùng với biên tập viên để kết hợp chúng với âm nhạc, âm thanh và lồng tiếng tạm thời để biến chúng trở thành một bộ phim trước khi thiết lập bất cứ thứ gì bằng đồ họa máy tính. Những trường hợp thay đổi về chi tiết bộ phim luôn luôn xảy ra, vì vậy họa sĩ kể chuyện (story artist) luôn phải hoạt động hết công suất trong thời gian làm phim. Một vài ý giải thích trên mong rằng có thể giải đáp phần nào thắc mắc của khán giả về họa sĩ kể chuyện (story artist). Sinh viên à, vẫn còn muốn theo đuổi nghề nghiệp này trong tương lai? Nó sẽ rất vất vả những cũng tràn ngập niềm vui….tất nhiên là nếu bạn thật sự thích vẽ và sáng tác những câu chuyện. CMAVN dựa trên Valerie’s Blog.

đạo diễn stop motion Ray Harryhausen

Những nhà làm phim hoạt hình chuyên nghiệp stop-motion có một sự kiên trì cực kỳ đáng nể.   Stop-motion là một phương pháp làm phim hoạt hình không hề mới lạ. Để tạo ra những thước phim uyển chuyển và khung hình đẹp mắt, người làm phim hoạt hình stop-motion phải kiên trì, nhẫn nại trong từng khâu thực hiện. Đồng thời, họ cũng bước từng bước thật chậm nhưng chắc chắn để có chỗ đứng vững chắc trong lòng công chúng. Cách thức làm phim hoạt hình ấn tượng   Bên cạnh 2D và 3D, stop-motion là một phương pháp thể hiện đặc biệt trong chất liệu hoạt hình và có tuổi thọ tương đương với lịch sử điện ảnh. Các nhà làm phim hoạt hình stop-motion sẽ chụp liên tiếp các bức ảnh tĩnh, cắt ghép tỉ mỉ những đồ vật, chi tiết cụ thể trong phim như nhân vật, đạo cụ,.. và sắp đặt chúng theo trình tự đựng sẵn để tạo thành những khung cảnh sống động theo chuẩn khung 24 hình/giây. Thật khó để tưởng tượng, hàng ngàn bức ảnh được chính tay các họa sĩ tạo ra lại có thể trở thành một bộ phim hoạt hình ấn tượng.Tuy vậy, không phải ai cũng có thể làm phim hoạt hình stop-motion chỉ với khả năng tạo hình giỏi. Người làm lĩnh vực này đòi hỏi phải có khả năng thổi hồn vào những đồ vật vô tri vô giác và tạo ra sự chuyển biến trong cảm xúc của người xem. Là một phương pháp làm phim hoạt hình lâu đời và đặc sắc, thế nhưng các hãng phim hoạt hình stop-motion từ trước tới nay không thường được cờ hoa đình đám, truyền thông quảng cáo rầm rộ như các chất liệu hoạt hình khác như 3D hay vẽ tay. Song, giới chuyên môn và những người yêu nghệ thuật vẫn dành cho nó một sự ưu ái đặc biệt. Lý do rất đơn giản, công đoạn thực hiện của stop-motion đòi hỏi các họa sĩ và ekip phải kiên trì, nhẫn nại khi thực hiện tạo hình các nhân vật, khung cảnh trong phim. Bởi số lượng hình ảnh cho một bộ phim stop-motion không phải là ít. Ngoài ra, người làm phim hoạt hình stop-motion cũng phải có kỹ năng tạo hình khéo léo, tinh tế và cẩn thận cao. Chính vì vậy, có thể dễ hiểu vì sao các bộ phim stop-motion vẫn luôn có một chỗ đứng vững chắc trên màn ảnh rộng và nhỏ, mặc cho nó không có nhiều bom tấn oanh tạc các phòng vé toàn cầu. Những nhà làm phim stop-motion nổi tiếng Nhắc đến những cây đại thụ của stop-motion không thể không kể đến những “lão đại” của nghề làm kỹ xảo điện ảnh, những người đặt nền móng đầu tiên cho các kỹ thuật cơ bản của phương pháp này. Bạn còn nhớ Willis O’Brien, một đạo diễn nổi tiếng đã đưa hình ảnh loài khủng long đồ sộ lên điện ảnh trong The Lost World (1925) và khiến khán giả choáng ngợp với chú linh trưởng khổng lồ trong Kinh Kong (1993)? Thế nhưng, bài viết sẽ không đề cập sâu về Willis O’Brien mà là học trò của ông, Ray Harryhausen, người đã đặt nền móng đầu tiên cho những kỹ thuật cơ bản của stop-motion. Ray Harryhausen thành danh với loạt tác phẩm như như Mighty Joe Young (1949), The 7th Voyage of Sinbad (1958), Jason and the Argonauts (1963), và đặc biệt là Clash of the Titans (1981). Tuy là những bộ phim người đóng, nhưng những nhân vật thần thoại, kỳ bí dưới dạng mô hình thu nhỏ qua bàn tay tài hoa của Harryhausen đã xuất hiện vô cùng sống động. Khởi nguồn cho hoạt hình chuyên nghiệp stop-motion, khủng long khổng lồ trong phim The Lost World (1925) Ray Harryhausen, đạo diễn đặt nền móng cho hoạt hình chuyên nghiệp stop-motion Tiếp đến là hai nhà làm phim hoạt hình chuyên nghiệp của LAIKA, hãng phim chuyên về stop-motion. Còn nhớ vào năm 2016, LAIKA tung ra bộ phim hoạt hình Kubo and the two strings, cái tên đã đe dọa tượng vàng Oscar của Zootopia. Thực chất, LAIKA không chỉ nổi tiếng với Kubo and the two strings mà có một nền tảng vững mạnh với những nhà làm phim xuất sắc của stop-motion. Henry Selick chính là một trong những người đóng góp không ít cho dòng phim hoạt hình chuyên nghiệp stop-motion nói chung và LAIKA nói riêng với bộ phim kinh điển Coraline.Cùng với đó là Travis Knight, chủ tịch và giám đốc của LAIKA, đồng thời là đạo diễn cho Kubo and the two strings. Ông là người đã trực tiếp thực hiện những thước phim hoạt hình chuyên nghiệp stop-motion cho hãng này, một loại hình nghệ thuật đòi hỏi rất nhiều sự kiên nhẫn của người làm. Travis Knight từng chia sẻ rằng: “Khi chúng tôi bắt đầu thành lập Laika 10 năm về trước, chúng tôi điều biết rằng làm sống lại một nền hoạt hình đang suy tàn là điều cực kỳ khó khăn. Chúng tôi phải tìm ra một lối thoát, môt giải pháp để đưa stop-motion trở lại, nếu như chúng tôi muốn tiếp tục thực hiện những gì mình yêu thích, nuôi nghề và sống bằng nghề này. Chúng tôi phải cố gắng mang đến một kỷ nguyên mới, một tương lai mới và truyền sinh khí cho nó.” Không chỉ riêng Knight mỗi một nhân viên LAIKA đều có ý nghĩ và quyết tâm về tương lai của phim hoạt hình chuyên nghiệp stop-motion: “Có những cách khác dễ dàng hơn nhưng sao tôi không chọn chúng. Đơn giản vì chúng tôi muốn thử thách chính mình. Chúng tôi muốn tạo nên điều gì đó đặc biệt.” Đạo diễn hoạt hình chuyên nghiệp Tim Burton với dòng phim phong cách gothic

đạo diễn Ji Barta

Đạo diễn stop-motion người Séc tâm sự về bộ phim hoạt hình mới nhất của mình, Đồ chơi trên Gác xép (Toys in the Attic) và hoạt hình phế thải kỳ diệu của Jiří Barta. Stop- motion: hoạt hình tĩnh vật Jiří Barta Khi xem tuyệt phẩm stop motion của Jiří Barta, Đồ chơi trên gác xép,  bạn sẽ nhận ra không có chi phí nào đủ lớn để thay thế sức mạnh của một người có tầm nhìn xa trông rộng tài năng với một câu chuyện thông minh, một đội ngũ tận tuỵ, một chiếc máy ảnh và một căn gác xép đầy những thứ phế liệu cũ kỹ và bụi bặm. Bộ phim của Barta không khoe khoang những mô hình tinh xảo hay kỹ thuật in màu 3D, thay vào đó là những thiết kế tuyệt vời, những nhân vật có chiều sâu và set phim dựng từ tập hợp kỳ diệu của những thứ phế liệu gia dụng kỳ quặc nhất mà bạn từng thấy. Đôi khi ngớ ngẩn, đôi khi đáng sợ, nhưng luôn thú vị để xem, Đồ chơi trên gác xép là một lời nhắc nhở về sức mạnh vốn có của visual (hình ảnh hoá) storytelling (kể chuyện) của hoạt hình stop motion. Vốn được hoàn thành vào năm 2009, bộ phim được đăng ký bản quyền bởi Eurocine Films trụ sở ở Paris vào năm 2010. Bản chuyển thể tiếng Anh, được viết, tuyển vai và đạo diễn bởi Vivian Schilling, với dàn diễn viên lồng tiếng hùng hậu  gồm Forest Whitaker, Joan Cusack và Cary Elwes. Đồ chơi trên gác xép đánh dấu sự ra mắt trên màn ảnh lớn đầu tiên của Barta ở Mỹ và review về bộ phim vô cùng tích cực. Và anh đã chia sẻ về những khó khăn khi thực hiện một bộ phim hoạt hình có thiết kế tinh xảo với một ngân sách eo hẹp ở Tiệp Khắc thời hậu Xô Viết   Buttercup Dan Sarto ( phóng viên): Cuộc sống của anh như thế nào dưới tư cách là một người làm phim hoạt hình trong hoàn cảnh Tiệp Khắc bị cai trị bởi Xô Viết? Jiří Barta: Dù đất nước của chúng tôi dưới sự ảnh hưởng và áp bức của Xô Viết trong 40 năm, số lượng sản xuất phim hoạt hình của Tiệp Khắc khá lớn, khoảng 250 dự án phim mỗi năm. Một phần lớn của việc sản xuất đó là chương trình cho trẻ em để chiếu trên TV, trong khi một phần nhỏ hơn tập trung vào các dự án cá nhân như những bộ phim hoạt hình ngắn, những bộ phim được chiếu trong rạp phim trước phim truyện hay tại những liên hoan phim điện ảnh. Khi được trao cơ hội để làm nên một câu chuyện của chính mình, tôi cùng các đồng nghiệp gồm những đạo diễn, thiết kế, những nhà diễn xuất hoạt hình đều muốn làm một phim ngắn. Tuy nhiên sự kiểm duyệt của nhà sản xuất phim ở Tiệp Khắc gắt gao với phim có live-action hơn là hoạt hình nên tôi và những đồng nghiệp có cơ hội tốt hơn để biến những ý tưởng của mình thành một phong cách nghệ thuật đại diện cho những phép ẩn dụ, biểu tượng và hàm ý của chúng tôi. Tôi biết có nhiều đồng nghiệp của tôi ở những nơi khác trong Đông Âu đã đi theo con đường tương tự vào lĩnh vực phim hoạt hình. Chúng tôi nắm bắt lấy cơ hội lớn, đối mặt với những thử thách lớn, kiếm tìm một chút tự do sáng tạo trong cái mê cung khổng lồ của cái chế độ này.   Sir Handsome DS: Điều gì cuốn hút anh đến với câu chuyện này?Tại sao anh lại chọn kịch bản này mà không phải là một câu chuyện khác để quay dựng?  JB: Tôi luôn có một vài chủ đề hoặc kịch bản trong ngăn kéo, chờ đợi một nhà sản xuất tài giỏi và có đủ kinh phí. Đồ chơi trên gác xép nguyên bản được gọi là Hôm nay là sinh nhật ai? (Whose birthday is it Today?) Nó là một trong những dự án “ngủ quên” mà tôi đã viết nhiều năm về trước với đồng nghiệp của mình, biên kịch Edgar Dutka. Tôi nhớ rằng chúng tôi đã rất mệt mỏi và buồn bực vì những khó khăn dai dẳng từ dự án dang dở Golem của mình nên chúng tôi quyết định làm một cái gì đó mới mẻ, một cái gì đó nhẹ nhàng, vui vẻ và dễ được chấp nhận bởi các nhà sản xuất cũng như khán giả nhỏ tuổi.  Trò chơi trẻ em bao giờ cũng đầy sự sáng tạo và tưởng tượng. Trẻ con dùng trí tưởng tượng để tạo ra những cuộc phiêu lưu và những tình huống trong những vở diễn của chúng. Ví dụ, chúng dùng những cái ly to thay thế cho những ngọn núi cao. Và một chiếc máy hút bụi bình thường trở thành một chiếc phi cơ hay một cái lò than nặng nề sẽ trở thành đầu máy hơi nước. Chúng hiểu ngôn ngữ của ẩn dụ của đồ vật khá tốt, đó là một thử thách tuyệt vời khi chúng tôi phải cố gắng sát nhập trí sáng tạo này vào bộ phim.   Tập hợp những món đồ chơi. Khi tôi tìm thấy quyển vở bài tập cũ của mình với hình tôi vẽ một đoàn tàu lửa làm từ nhưng tấm vé tàu cũ với một mẩu thuốc lá thay cho ống khói, đứa trẻ trong trí tưởng tượng của tôi sống dậy. Edgar và tôi nhớ lại những trò chơi chúng tôi thường chơi trong những nơi kỳ quặc bị cấm trên gác xép nhà mình. Đột nhiên, kịch bản chúng tôi viết đem lại cho chúng tôi cảm giác vui vẻ thật sự.

đạo diễn Domee Shi

Đạo diễn nữ đầu tiên của loạt phim hoạt hình ngắn Pixar Đã hơn 30 năm thành lập cho đến nay và hãng phim hoạt hình pixar đã sản xuất hơn 20 phim hoạt hình ngắn, nay lần đầu tiên có đạo diễn là nữ, Domee Shi đạo diễn phim hoạt hình ngắn “Bao” sẽ công chiếu vào ngày 15/6/2018 Domee Shi tốt nghiệp chương trình Cử nhân  Hoạt hình Ứng dụng tại trường Sheridan College, hiện đang làm việc tại Pixar như là một nghệ sĩ hình ảnh “Tôi yêu storyboard, thiết kế nhân vật, và hoạt hình những điều dễ thương. Mặc dù tôi đã sống và ở Canada, nhưng tôi vẫn mơ ước được gặp gỡ và làm việc với mọi người trên khắp thế giới cùng chia sẻ niềm đam mê phim hoạt hình và sản xuất phim hoạt hình” Domee Shi  chia sẻ. Đạo diễn  Domee Shi sinh ra tại Trung Quốc, sống tại đấy cho đến khi ba mẹ chuyển chỗ ở đến Toronto, Canada vào năm cô 2 tuổi. Sau khi tốt nghiệp Cô gái trẻ bắt đầu công việc thực tập tại Pixar nhiều năm, sau đó chính thức làm việc với vai trò thiết kế câu chuyện cho Inside Out và những dự án khác như The Good Dinosaur, Incredibles 2 và sắp tới là Toy Story 4. Để thực hiện mơ ước, Đạo diễn  Domee Shi đã bắt đầu từ trang blog Tumblr, You Tube và Vimeo “ tràn ngập” những bản vẽ và phim hoạt hình của Domee Shi thời sinh viên khi năm học kết thúc. Gestures! 30 giây và 1 phút của Đạo diễn  Domee Shi   Sketch mỗi mùa và cũng có lúc “hơi làm biếng”     Quan sát Sketch các hoạt động của con người trong đời sống Thiết kế Nhân Vật     Phác thảo Layout Beat board Và cuối cùng là các Animatic trên Youtube và Vimeo Nguồn tham khảo : https://www.tumblr.com/tagged/domee-shi http://anim-tuts.blogspot.com/2012/06/pixar-story-artist-domee-shi.html

phỏng vấn nhà sản xuất phim hoạt hình CoCo

Lý do bộ phim được đặt tên là Coco Lee Unkrick: Bộ phim sở dĩ được đặt tên như vậy là vì nó thật sự chứa đựng điều gì đó bí ẩn đối với người xem. Người xem không biết nó có nghĩa là gì, hoặc nó có phải là tên nhân vật hay không. Tuy nhiên, người xem sẽ sớm khám phá ra rằng Coco là tên cụ cố đã khuất của Miguel. Cụ là người cao tuổi nhất trong gia đình, người nắm giữ ký ức, người tượng trưng cho chủ đề xuyên suốt bộ phim. Adrian Molina: Hơn nữa, chúng ta cũng biết rằng người xem chắc chắn sẽ thắc mắc lý do bộ phim được đặt tên theo cụ cố của Miguel, vì dường như cụ chỉ đóng vai phụ mờ nhạt trong câu chuyện. Tuy nhiên, sau khi xem xong bộ phim, người xem hẳn sẽ có chung suy nghĩ như chúng tôi. Tên cụ cố Coco rất đáng để đặt cho bộ phim. Du lịch đến Mexico để nghiên cứu, tìm hiểu về nét văn hóa đặc trưng của đất nước này Adrian Molian: Một trong những điều chúng tôi muốn đạt được trong bộ phim là nó phải phản ánh chân thật bản sắc văn hóa và con người Mexico. Như anh biết đấy, chúng tôi vốn yêu quý Mexico và muốn chia sẻ tình cảm đó qua bộ phim này. Bộ phim như một lời tái khẳng định tình cảm của chúng tôi dành cho văn hóa, truyền thống và con người của đất nước tươi đẹp này. Lee Unkrick: Lúc đặt chân đến Mexico và làm việc với các chuyên gia nơi đây, chúng tôi ngạc nhiên khi biết Lễ hội người chết (Dia De Los Muertos) ở mỗi vùng miền có nghi thức tổ chức rất nhau, phong phú, đa dạng vô cùng. Nó khác hẳn với những suy nghĩ và hiểu biết trước đây của tôi về Lễ hội người chết. Nó thật sự là bất ngờ lớn đối với tôi. Trước khi thực hiện bộ phim này, tôi chưa hiểu thấu đáo về văn hóa truyền thống của người Mexico, nhưng từ sau chuyến du lịch, phải nói rằng vốn hiểu biết của tôi đã được mở mang hơn trước rất nhiều. Lễ hội người chết (Dia De Los Muertos): Chín người mười ý Adrian Molian: Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy người Mexico có quan điểm không thống nhất về Lễ hội người chết (Dia De Los Muertos). Vì vậy, chúng tôi đã phản ánh đúng thực tế này trong phim. Trong phim có nhân vật nói thế này, có nhân vật nói thế kia về Lễ hội người chết. Tuy nhiên, để đảm tính nhất quán trong mỗi nhân vật, chúng tôi cho nhân vật nói thế nào, thì anh ta sẽ luôn nói thế nấy trong suốt chiều dài bộ phim. Chúng tôi cố gắng giữ cho nhân vật không nói lẫn lộn lung tung, cái này xọ cái kia. Ngôn ngữ vốn đa dạng và thay đổi từng ngày; do đó, chúng ta muốn thận trọng trong cách tiếp cận vấn đề này. So sánh với bộ phim Book of Life Lee Unkrick: Tôi mừng là bộ phim Book of Life ra đời trước khi chúng tôi thực hiện bộ phim này vài năm. Nhờ vậy, chúng tôi có cơ hội thưởng thức nó và bảo đảm bộ phim của mình kể về câu chuyện độc đáo, mới lạ. Chúng tôi tin bộ phim kể về câu chuyện rất hay, khác hẳn với nhiều câu chuyện lấy cùng bối cảnh văn hóa. Chúng tôi là bạn thân của đạo diễn phim Book of Life, Jorge Gutierrez. Chúng tôi là fan hâm mộ phim của ông, và ông cũng là fan hâm mộ phim của chúng tôi. >>> Tìm hiểu thêm: Khoá học làm phim hoạt hình 3D Làm phim thấm đượm nét văn hóa riêng, nhưng vẫn mang tính phổ biến Adrian Molina: Bộ phim lấy đề tài gia đình, nên trước nhất, nó sẽ xoay quanh những giá trị gia đình truyền thống quen thuộc với mọi người. Kế đến, bộ phim sẽ kể về những niềm đam mê và sự lựa chọn trong cuộc sống, sự theo đuổi những ước mơ, những điều gia đình mong mỏi ở bạn, hoặc những điều họ nghĩ là sẽ tốt cho bạn. Tôi nghĩ đó là điều mà ai cũng thấu hiểu. Lee Unkrick: Tham gia vào quá trình làm phim tại Pixar có nhiều người là họa sĩ. Một số người có hoàn cảnh giống như tôi, họ sinh ra trong gia đình luôn ủng hộ con em làm điều mình thích. Tuy nhiên, cũng có nhiều người xuất thân trong gia đình cấm đoán họ đủ điều. Vì vậy, họ buộc phải chọn giải pháp rời xa gia đình để theo đuổi niềm đam mê của mình. Tôi nghĩ việc chọn đi theo con đường riêng của mình mặc cho sự ngăn cấm của gia đình là điều mà người cùng chung cảnh ngộ ở bất cứ quốc gia, nền văn hóa nào cũng đều có thể thấu hiểu. Darla Anderson: Cuối cùng, như bao bộ phim khác, trong bộ phim này, chúng tôi muốn người xem đắm mình vào một thế giới khác. Bộ phim mang tính phổ biến, vì người xem ai cũng có chung mong muốn theo chân nhân vật chính dấn chân vào những chuyến phiêu lưu mạo hiểm đầy thú vị trong bộ phim. TÓM TẮT PHIM Miguel mơ ước trở thành nghệ sĩ âm nhạc giống như thần tượng của mình, Ernesto de la Cruz, mặc cho sự ngăn cấm của gia đình. Đương lúc tuyệt vọng, Miguel bỗng thấy mình được đưa đến vùng đất đầy màu sắc của người chết, nơi diễn ra hàng loạt sự kiện kỳ bí. Trên đường đi, Miguel kết bạn với Hector, và họ cùng nhau dấn thân vào

Đêm 04/03, Lễ trao giải Oscars 2018 đã vinh danh Coco cho hạng mục Phim hoạt hình xuất sắc nhất. Đây là kết quả mà nhiều người có thể dự đoán từ trước. >>> Có thể bạn quan tâm: Phỏng vấn nhà sản xuất phim Coco Nguồn: nytimes.com Coco là phim hoạt hình 3D thuộc thể loại giả tưởng, phim ca nhạc và phiêu lưu từ ý tưởng của đạo diễn Lee Unkrich và Adrian Molina. Bộ phim là sự trở lại sau thời gian “im hơi lặng tiếng” khá dài của hãng làm phim hoạt hình Pixar. Ngay từ khi công bố kế hoạch ra mắt, người yêu phim hoạt hình và fan của Pixar đã dành khá nhiều sự trông chờ vào màn xuất hiện của Coco ở các phòng vé. Theo đó, ý tưởng phim được lấy từ Lễ hội truyền thống Day of the Dead (Día de los Muertos) của người dân Mexico, lễ tri ân dành cho những người chết trong văn hóa Mexico. Nội dung xoay quanh hành trình tìm lại nguồn cội gia đình của cậu bé yêu âm nhạc Miguel. Trong ngày hội, Miguel đã đánh cắp một cây đàn của thần tượng âm nhạc của mình là Ernesto de la Cruz. Cây đàn đã đưa cậu bé đến với vùng đất của người chết. Tại đây, Miguel tham gia vào chuyến hành trình với một “kẻ lừa đảo quyến rũ” mang tên Hector để tìm hiểu rõ hơn về lịch sử gia đình mình và đặc biệt là người cha quá cố. Trái ngược với suy nghĩ về khung cảnh đau buồn của thế giới người chết, hai đạo diễn Lee Unkrich và Adrian Molina đã mang đến cho khán giả một vùng đất màu sắc sặc sỡ cùng sự ấm áp.  Các nhà làm phim của Pixar luôn được đánh giá cao ở phần kịch bản, bên cạnh sự trau chuốt về hình ảnh và màu sắc phim. Theo đó, kịch bản của Coco đã đưa nó trở thành một bộ phim hoạt hình đỉnh cao ở thời điểm hiện tại và tiếp nối thành công của Inside out. Thông điệp mà ekip lồng ghép trong từng thước phim chứa đựng giá trị nhân văn sâu sắc và hàm chứa tính giáo dục cao trong xã hội hiện nay. Nguồn: mainichi.jp Hành trình của nhân vật chính Miguel mang đến một bài học về sự kiên định trong việc theo đuổi đam mê của con người trong cuộc sống. Tuy nhiên, có lẽ điểm nhấn chính là thông điệp về tình cảm gia đình và ghi nhớ nguồn cội, ông bà tổ tiên được ekip làm phim gửi gắm. Khi người thân qua đời, họ không biến mất mà chỉ đến một nơi khác, sống một cuộc sống khác, dưới một nhân tướng khác. Tuy nhiên, họ chỉ mất đi khi bạn lãng quên họ và “giết” họ trong chính tiềm thức của mình. Họ sẽ luôn ở trong trái tim của bạn khi bạn nhớ đến họ, về những điều tốt đẹp, về những bài học, sức mạnh mà họ truyền cho bạn. Đây chính là thông điệp đặc biệt nhất mà rất ít phim hoạt hình có thể truyền tải đến người xem như Coco. Chính điều hiếm thấy này không chỉ mang đến tiếng cười mà còn lấy đi nước mắt của khán giả một cách tự nhiên. Đồng thời, Coco cũng nhận được khá nhiều lời khen từ giới truyền thông trong thời gian qua. Trang Variety đánh giá cao về ý nghĩa nhân văn của Coco qua những hình ảnh về tình cảm gia đình, khai thác về sự kết nối giữa các thế hệ dù không cùng một thế giới. Variety viết: “Coco mang một ý nghĩa nhân văn đáng được khen ngợi, dạy cho trẻ em cách gìn giữ và tôn trọng những truyền thống của những người đi trước, đồng thời nhắc nhở cho chúng ta rằng nguồn sáng tạo thực sự nằm ở bản thân mỗi con người.” Trong khi đó, The Hollywoodreporter cho rằng: “Coco đã nổi lên từ những nỗ lực không ngừng của Pixar kể từ sự thành công của Inside Out, nó cũng là bộ phim mang đến nhiều cung bậc cảm xúc cho người xem.” Cùng với những lời khen có cánh của báo chí, Coco cũng giành được doanh thu toàn cầu ấn tượng 300 triệu USD sau 3 tuần công chiếu. Nguồn: variety.com Mới nhất, tại Lễ trao giải Oscars lần thứ 90, Coco đã được gọi tên cho hạng mục Phim hoạt hình xuất sắc nhất và Ca khúc chủ đề xuất sắc với Remember Me. Đây là kết quả được dự đoán từ trước khi ở các buổi lễ trao giải tiền Oscars, Coco cũng thu về vô số giải thưởng danh giá. >>> Xem thêm:  Oscars 2018: The Shape of Water bội thu tượng vàng H.Đ

Đêm trao giải Oscars 2018 đã diễn ra vào tối 04/03 (sáng ngày 05/03 theo giờ Việt Nam) tại nhà hát Dolby, Los Angeles (Mỹ). Có thể bạn quan tâm: James Ivory – Biên kịch 89 tuổi giành giải Oscar Nguồn: oscar.go.com Trước hết, có thể nhắc đến thành công của ekip The Shape of Water với chiến thắng hạng mục Phim xuất sắc nhất sau khi vượt qua hàng loạt cái tên đình đám khác. Cùng với đó, hạng mục Đạo diễn xuất sắc nhất cũng đã gọi tên Guillermo del Toro, một trong ba chàng lính ngự lâm tài năng của Mexico. Nếu như Alfonso Cuaron chiến thắng với Gravity và Alejandro G. Inarritu với Birdman, The Revenant thì đây chính là thời điểm của Guillermo del Toro. Không những vậy, The Shape of Water cũng thu về một số giải thưởng phụ như Nhạc nền xuất sắc nhất hay Thiết kế sản xuất xuất sắc.   Nguồn: nola.com Về phần kịch bản, James Ivory, biên kịch của Call Me by Your Name đã trở thành người già nhất nhận giải thưởng Oscars khi được xướng tên ở hạng mục Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất. Tài hoa của một người đã trải qua 89 năm cuộc đời này là không thể bàn cãi khi trước đó ông đã thành danh trong làng điện ảnh những năm 80, 90. Kịch bản Call Me by Your Name được ông chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Andre Aciman. Một câu chuyện về mối tình đồng tính của hai người đàn ông đã tạo nên tiếng vang lớn và nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn. Nguồn: bollywoodlife.com Trong khi đó, hạng mục Kịch bản gốc hay nhất được trao cho Jordan Peele, biên kịch và đạo diễn của Get Out. Hiện tượng của Oscars 90 đã nhận được khá nhiều phản hồi cũng như đánh giá tích cực từ giới chuyên môn. Jordan Peele vốn là một đạo diễn, biên kịch “tay mơ” khi trước đó chỉ chuyên trị mảng hài hước. Với đề tài kinh dị trong dự án Get Out, nghệ thuật kể chuyện của Jordan Peele được đánh giá cao, khiến cho khán giả dần lọt thỏm vào nỗi sợ và căng cứng người. Nguồn: shadowsportguy.com Cũng là một hiện tượng như Get Out, thế nhưng Lady Bird của nữ đạo diễn, biên kịch trẻ Greta Gerwig lại ra về tay không. Loạt đề cử tiền Oscars của Lady Bird đều không được xướng tên khiến nhiều người tiếc nuối. Tại đêm trao giải, công chúng đã chứng kiến lần đầu tiên nam tài tử Gary Oldman được xướng tên trong hạng mục Nam diễn viên chính xuất sắc với vai diễn Thủ tướng Anh Winston Churchill của Darkest Hour. Có thể nói đây là chiến thắng xứng đáng cho những nỗ lực biến hóa không ngừng của nam tài tử người Anh sau nhiều vai diễn. Gia tài khoảng 50 vai diễn cùng khả năng đa dạng về tạo hình và thể hiện tính cách đã chứng minh tài năng của nam diễn viên 59 tuổi này. Người hâm mộ của Harry Potter, đặc biệt là fan của Sirius Black chắc hẳn sẽ không thể nhận ra vai diễn Thủ tướng Anh già béo của Gary Oldman nếu như không đọc phần giới thiệu. Nguồn: thesun.co.uk Ở hạng mục Phim hoạt hình xuất sắc nhất, không có quá nhiều bất ngờ khi Coco của xưởng làm phim hoạt hình Pixar được vinh danh tại Oscars 90.  Không những vậy, ca khúc Remember Me còn đánh bại cả This is Me trong tác phẩm ca vũ nhạc ăn khách The Greatest Showman để dành giải Ca khúc chủ đề xuất sắc. Nguồn: indiewire.com Lễ trao giải năm nay diễn ra trong bối cảnh Hollywood rúng động với hàng loạt cáo buộc lạm dụng tình dục trong ngành sản xuất phim khi hàng loạt ngôi sao đình đám lên tiếng tố các nhân vật sừng sỏ trong lĩnh vực này lợi dụng và sàm sỡ. Cùng với đó, trước thềm Oscars 90, James Franco, diễn viên được kỳ vọng sẽ giành chiến thắng hạng mục Nam diễn viên chính xuất sắc nhất lại không nhận được đề cử do vướng phải những cáo buộc về hành vi không đứng đắn và xâm hại tình dục trong quá khứ. Danh sách giải thưởng Oscars lần thứ 90, năm 2018 Phim truyện xuất sắc Call Me by Your Name Darkest Hour Dunkirk Get Out Lady Bird Phantom Thread The Post The Shape of Water (thắng) Three Billboards Outside Ebbing, Missouri Đạo diễn xuất sắc Dunkirk, Christopher Nolan Get Out, Jordan Peele Lady Bird, Greta Gerwig Phantom Thread, Paul Thomas Anderson The Shape of Water, Guillermo del Toro (thắng) Nam diễn viên chính xuất sắc Timothée Chalamet trong Call Me by Your Name Daniel Day-Lewis trong Phantom Thread Daniel Kaluuya trong Get Out Gary Oldman trong Darkest Hour (thắng) Denzel Washington trong Roman J. Israel, Esq. Nữ diễn viên chính xuất sắc Sally Hawkins trong The Shape of Water Frances McDormand trong Three Billboards Outside Ebbing, Missouri (thắng) Margot Robbie trong I, Tonya Saoirse Ronan trong Lady Bird Meryl Streep trong The Post Nam diễn viên phụ xuất sắc Willem Dafoe trong The Florida Project Woody Harrelson trong Three Billboards Outside Ebbing, Missouri Richard Jenkins trong The Shape of Water Christopher Plummer trong All the Money in the World Sam Rockwell trong Three Billboards Outside Ebbing, Missouri (thắng) Nữ diễn viên phụ xuất sắc Mary J. Blige trong Mudbound Allison Janney trong I, Tonya (thắng) Lesley Manville trong Phantom Thread Laurie Metcalf trong Lady Bird Octavia Spencer trong The Shape of Water Kịch bản chuyển thể xuất sắc Call Me by Your Name, James Ivory (thắng) The Disaster Artist, Scott Neustadter & Michael H. Weber Logan, Scott Frank & James Mangold and Michael Green Molly’s Game, Aaron Sorkin Mudbound, Virgil Williams and Dee

Tháng 11/2017, học viên các khoá của Viện Truyện tranh và Hoạt hình (Comic Media Academy – CMA) bắt đầu Kỳ thực tế, vẽ ngoại cảnh tại Đà Lạt. Địa điểm được CMA lựa chọn để học viên có cơ hội cảm nhận phong cảnh hài hòa và không gian nhẹ nhàng của thành phố sương mù trong mùa đẹp nhất năm. >>> Có thể bạn quan tâm: Khóa học làm phim hoạt hình 3D Bạn Nguyễn Gia Lộc, học viên khóa 3 ngành Hoạt hình 2D chia sẻ: “Mặc cho cái lạnh buốt xương của Đà Lạt nhưng khung cảnh trữ tình và những kỷ niệm cùng bạn bè đã sưởi ấm cho mình.” Thật vậy, giữa không khí giá lạnh của trời Đà Lạt vào đêm, các học viên cùng quây quần trong một không gian nhỏ và trao đổi về một ngày trải nghiệm, khám phá tại đây. Chính điều này đã làm cho kỳ thực tế thêm hào hứng và thú vị hơn hẳn. Mặt khác, việc được trải nghiệm không gian thực tế, cuộc sống của con người, chứ không chỉ bó hẹp trong 4 bức tường, sẽ làm cho các họa sĩ trẻ của chúng ta thêm nguồn cảm hứng trong những bài sáng tác sau này. Theo đó, mỗi học viên đều có những thu hoạch đáng kể sau kỳ thực tế. Gia Lộc bày tỏ sự phấn khích khi được tham gia chuyến thực tế lần này và hy vọng sẽ có thêm nhiều chuyến đi nữa để trau dồi thêm những kiến thức đã học. Lộc cho biết: “Sau kỳ thực tế, hòa sắc trong những tác phẩm của mình đã tiến bộ rất nhiều, tranh cũng rõ ràng và dễ nhìn hơn trước.” Bạn Nguyễn Hồng Quân, học viên khóa 5 ngành Hoạt hình 3D cũng có một vài thu hoạch cho kỹ năng của bản thân. Quân cho biết: “Trong chuyến đi thực tế Đà Lạt, mình có nhiều kỷ niệm rất vui cùng các bạn có cơ hội được quan sát thiên nhiên vùng khí hậu ôn hòa. Trong quá trình thực tế mình tiếp thu thêm những kiến thức về mảng màu và độ loang trong màu nước. Hy vọng những kỳ sau mình được học thêm về nguyên lý màu sắc và tạo hình.” Trong khi đó, Võ Ngọc Khánh Linh, học viên khóa 2 ngành Truyện tranh lại có những tâm sự chân thành: “Chuyến đi cho mình cơ hội thực hành những điều đã học vào thực tế và khám phá thêm những điều mới mẻ, không chỉ bằng tâm trí mà còn bằng giác quan trong cơ thể, rèn luyện cảm nhận và đón nhận những điều thiên nhiên ban tặng. Bên cạnh việc tích lũy tư liệu hình ảnh, mình bỏ túi thêm được nhiều câu chuyện thú vị để kể vào tranh của mình.” Ngoài việc bổ sung kiến thức hay kỹ năng, các học viên CMA còn tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm thực tế và đưa vào trong những tác phẩm sáng tác sau này. Bạn Phan Hồng Đức, học viên khóa 5 ngành Hoạt hình 3D tiết lộ: “Sau kì thực tế này, mình thu hoạch được rất nhiều thứ: kiến thức về màu sắc và bố cục, kỹ năng vẽ và nhìn màu sắc, dữ liệu hình ảnh có giá trị làm tài liệu tham khảo… Nhưng điều làm mình hài lòng nhất là sự gắn kết tập thể sâu sắc và kem tươi 7k cực ngon trước cổng trường đại học Đà Lạt. Ở những kì thực tế tiếp theo, mong rằng mình sẽ vẽ đẹp hơn và có nhiều câu chuyện vui để làm tư liệu sáng tác hơn.” Không khác Hồng Đức, bạn Nguyễn Thị Hoài Thương, học viên khóa 2 ngành Truyện tranh cũng cho rằng những trải nghiệm thực tế đã giúp bạn có thêm cảm xúc khi vẽ tranh. Thương chia sẻ: “Kỳ thực tế Đà Lạt để lại cho mình rất nhiều lưu luyến. Sau chuyến thực tế, cách sử dụng màu poster và màu bột của mình đã trở nên thành thục hơn. Những ấn tượng vẻ đẹp của phong cảnh, hay lòng tốt của anh chị chủ nhà trọ, chú tài xế taxi… đều góp phần giúp mình học vẽ tranh có thêm phần cảm xúc. Mong rằng kì thực tế tới sẽ giúp tôi học hỏi thêm được nhiều kinh nghiệm. Thuần thục kỹ năng vẽ bằng màu nước chứ không chỉ riêng màu poster hay màu bột.” Riêng bạn Nguyễn Khương Thảo, học viên khóa 5 ngành Hoạt hình 2D lại có những kỷ niệm khá thú vị và đáng nhớ mặc dù Đà Lạt không phải thành phố yêu thích của Thảo. Bạn cho biết: “Kì thực tế này mình bị vùi dập không ít. Lên Đà Lạt mình phải leo một đống dốc, tối ngủ thì lạnh teo người, phải tắm nước lạnh trong tiết trời lạnh giá và bị sốt mất 2 ngày. Mặc dù Đà Lạt không khiến mình yêu thích mấy nhưng kì thực tế tại đây cũng khiến mình học hỏi được không ít nhờ vào sự chỉ dẫn tận tình của thầy cô và khiến mình phải xem lại về quy trình kí họa màu nước của mình cũng như sự hài hoà của màu trong tranh. Sau kì thực tế này, mình mong sẽ khắc phục được việc màu bị nhạt, bố cục chưa rõ ràng và nếu có thể thì truyền tải được tinh thần, bầu không khí của địa điểm mà mình kí họa.” Trong khi các bạn học viên tham gia chuyến thực tế Đà Lạt có rất nhiều kỷ niệm chung, thì các học viên khác của 3 khóa cũng có những thu hoạch không ít. Bạn Mai Thu Hải Ngân ngành Hoạt hình 2D và Nguyễn Hoàng Phương Nhi ngành Truyện tranh, thành viên của khóa 3 đã cùng nhau đi thực tế tại

Hoạt động sôi nổi của Viện Truyện tranh và Hoạt hình trong năm 2017 1

Viện Truyện tranh và Hoạt hình (Comic Media Academy – CMA) khép lại năm 2017 với nhiều thành công trong đào tạo và hợp tác với các đơn vị. Trước hết, về mặt đào tạo, ngoài tổ chức các môn học, CMA còn tạo cơ hội cho học viên tiếp cận sớm với nghề. Một số học viên CMA đã có thể trực tiếp đứng lớp hay trợ giảng cho các lớp học ngắn hạn như lớp Manga Comics dành cho thiếu nhi, lớp học vẽ truyện tranh cấp tốc, lớp biên kịch ngắn hạn. Hơn nữa, các học viên Khóa 1 đã tham gia trợ giảng cho các môn học và tham gia hướng dẫn cho chương trình tập huấn Sketchnote của CMA. Đáng chú ý, các bạn học viên đã chủ động trong việc tự sáng tác những khung truyện tranh ngắn và lập ra những fanpage của từng nhóm học tập. Nổi bật nhất phải kể đến là fanpage Bầu Trời Chất Xám của nhóm học viên khóa 05 với lượng theo dõi hiện tại là hơn 15.000 người. Ở phần hợp tác đối ngoại, 2017 là một năm hoạt động sôi nổi của CMA khi có rất nhiều chương trình giao lưu, gặp gỡ với các đơn vị trong nước và quốc tế. Giữa năm 2017, CMA tổ chức talkshow Digital Painting: Xu hướng và Cơ hội nghề nghiệp với sự góp mặt của họa sĩ Chunli Thiện Nguyễn và họa sĩ Hoàng Anh Đức (Painter Man). Talkshow được tổ chức nhằm giúp các bạn hiểu rõ hơn về nghề Digital Painting. Đặc biệt, talkshow là điểm mở đầu cho chương trình đào tạo chuyên nghiệp về nghề Digital Painting tại CMA. Một tháng sau đó, CMA tiếp tục tổ chức cho học viên đến tham quan và tìm hiểu thực tế tại công ty Thiết kế Sao Sáng, một trong những studio làm phim hoạt hình nổi tiếng hiện nay tại Việt Nam. Tại đây, các bạn học viên được chính những họa sĩ của Sao Sáng giới thiệu, hướng dẫn các quy trình thực hiện một tác phẩm hoạt hình. Đặc biệt, chương trình này cũng nằm trong kế hoạch Company Tour – Thực tế tại các công ty mà CMA đã và đang thực hiện từ năm 2017. Việc tận mắt chứng kiến và giải đáp trực tiếp các thắc mắc sẽ giúp học viên CMA có cái nhìn rõ ràng và chân thực nhất về nghề làm phim hoạt hình và truyện tranh. Cuối năm 2016, CMA từng tổ chức buổi workshop với sự hướng dẫn của họa sĩ Maxime Peroz (Pháp). Buổi workshop này tiếp tục được tổ chức trong năm 2017 với mục đích giúp học viên có thêm kiến thức về Character Design & Storytelling. Thời điểm cuối năm 2017, CMA tiếp tục chào đón những chuyên gia về truyện tranh và hoạt hình trên thế giới. Đầu tiên là Mr. Kagetoshi Yasuhiro, Trưởng phòng CG-Animation của Học viện TOHO, diễn giả của hội thảo Anime & Con đường tiến ra thế giới. Thứ hai là Nhà sản xuất, đạo diễn, họa sĩ hoạt hình Thomas Voigt,đến từ Đức. Được biết, ông có hơn 30 năm kinh nghiệm sản xuất phim hoạt hình cho nhiều khách hàng quốc tế gồm hoạt hình 2D, 3D, Motion Comics, TV Series, Feature film, games,… Điều đáng chú ý nhất chính là ông sẽ đảm nhận vai trò Professor of Animation tại CMA. Mr. Thomas Voigt sẽ mang kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm của bản thân để truyền tải đến thế hệ học viên ngành hoạt hình của CMA với kỳ vọng các bạn sẽ sở hữu tay nghề cứng cáp hơn. Khép lại năm 2017, CMA chào đón chuyến thăm của Kim Dong Woo, CEO của Comics Family, một trong những công ty hàng đầu về webtoons & character của Hàn Quốc. Ngoài ra còn có sự xuất hiện của họa sĩ Vitamin, tác giả bộ truyện tranh Kim Chi Củ Cải nổi tiếng trên mạng xã hội. Sau một năm hoạt động, CMA hướng đến năm 2018 với nhiều dự định hơn trong hợp tác quốc tế. Theo đó, mở đầu năm 2018, CMA chào đón đoàn thực tập sinh đến từ Đại học Chosun, Hàn Quốc. Các bạn sinh viên Chosun sẽ trải qua 3 tuần trải nghiệm tại TPHCM với sự hỗ trợ của học viên CMA. Kết thúc chuyến thực tập, các bạn sinh viên Đại học Chosun sẽ tự thực hiện một tác phẩm truyện tranh hay hoạt hình về văn hóa, cuộc sống của người dân Sài Gòn. Khởi đầu năm 2018 đã là một hành trình hấp dẫn của sinh viên Hàn và học viên CMA, hứa hẹn đây sẽ là một năm hoạt động tích cực, sôi nổi của Viện Truyện tranh và Hoạt hình. H.Đ

Sinh viên Đại học Chosun Hàn Quốc thực tập tại Comic Media Academy

Ngày 8/1 vừa qua, các bạn sinh viên Đại học Chosun, Hàn Quốc đã có buổi giao lưu cùng học viên Viện Truyện tranh và Hoạt hình (Comic Media Academy – CMA) để chuẩn bị cho chuyến thực tập sắp tới. >>> Tìm hiểu thêm: Khóa học làm phim hoạt hình 2D Animation Artist Theo đó, chương trình thực tập, giao lưu chuyên môn giữa sinh viên Đại học Chosun và học viên CMA nằm trong hoạt động hợp tác của cả 2 trường từ năm 2018. Đồng thời, đây cũng là chương trình hợp tác quốc tế đầu tiên mà CMA hướng đến trong năm 2018. Trong chương trình lần này, các bạn đại diện sinh viên Đại học Chosun sẽ tham quan cũng như đi thực tế quan sát đời sống ở thành phố Hồ Chí Minh, nhằm tìm kiếm tư liệu sáng tác cho tác phẩm thu hoạch và thực hiện báo cáo. Xuyên suốt quá trình, đại diện học viên CMA sẽ đồng hành cùng hành trình khám phá TPHCM của các bạn sinh viên Đại học Chosun. Hỗ trợ trong việc giao tiếp với người địa phương, đóng vai hướng dẫn viên để giới thiệu về các địa điểm nổi bật của thành phố, giúp các bạn sinh viên Đại học Chosun có nguồn tư liệu đa dạng và đặc sắc nhất. Cụ thể, sinh viên Đại học Chosun và học viên CMA sẽ được chia thành 4 nhóm. Mỗi nhóm sẽ gồm 1 hoặc 2 học viên CMA hỗ trợ, đồng hành. Kết quả của chương trình sẽ là những tác phẩm truyện tranh và hoạt hình mà mỗi nhóm thực hiện. Các bạn nhóm truyện tranh sẽ làm một tác phẩm truyện tranh ngắn có độ dài 24 trang. Trong khi đó, các bạn nhóm hoạt hình sẽ thực hiện một đoạn animatic có độ dài 90s. Chủ đề cho tác phẩm của các bạn sẽ được lấy từ cuộc sống của con người TPHCM, về nét đẹp văn hóa Việt Nam hay rộng hơn là sự giao thoa văn hóa giữa hai quốc gia. Ngoài sự đồng hành của học viên, Viện Truyện tranh và Hoạt hình cũng sẽ tạo điều kiện, hỗ trợ phòng máy cho các sinh viên thực hiện tác phẩm bằng phần mềm chuyên dụng. Đồng thời, các thiết bị liên quan cũng như cơ sở vật chất sẽ được chuẩn bị để phục vụ các bạn trong suốt chương trình. Thời gian của chương trình thực tập và giao lưu giữa sinh viên Đại học Chosun (Hàn Quốc) và học viên CMA sẽ kéo dài từ ngày 8-31/01/2018. Ban giám khảo trong buổi báo cáo và trình bày tác phẩm sẽ sớm được thông báo trên fanpage Comic Media Academy và website cmavn.org Hành trình tìm hiểu về văn hóa người dân Sài Gòn nói riêng và con người Việt Nam của các bạn sinh viên Hàn Quốc đã chính thức bắt đầu. Liệu những nét đẹp, khung cảnh hay hình ảnh lao động nào sẽ thu hút sự chú ý và xuất hiện trong những tác phẩm của các bạn sinh viên Đại học Chosun? Cùng chờ xem nhé!

Phim hoạt hình hay The Dam Keeper 13

Poster của phim The Dam Keeper. Nguồn: imdb.com The Dam Keeper là bộ phim hoạt hình ngắn với thời lượng 18 phút được sản xuất bởi hai đạo diễn Robert Kondo và Dice Tsutsumi, đồng thời cũng là biên kịch của phim. The Dam Keeper được thực hiện tại Tonko House LLC, được ra mắt chính thức lần đầu tiên tại Liên hoan phim quốc tế Berlin vào ngày 11/2/2014 và công chiếu tại Mỹ vào ngày 14/3 cùng năm tại Liên hoan phim trẻ em quốc tế New York. Bộ phim với cốt truyện dễ thương và cảm động đã nhanh chóng làm tan chảy trái tim mỗi người xem và nghiễm nhiên được lọt vào danh sách đề cử Phim hoạt hình ngắn hay nhất của giải thưởng Oscar lần thứ 87, năm 2015. Nội dung của The Dam Keeper kể về chú lợn con sống cô đơn một mình trong một cối xay gió lớn và có nhiệm vụ bảo vệ thị trân nơi cậu sinh sống khỏi đám sương mù đen nguy hiểm. Ngày qua ngày, cậu luôn phải thức dậy sớm và đúng theo giờ quy định để điều khiển cối xay rồi mới được đi học vì thế người chú heo bé nhỏ lúc nào cũng lấm lem bụi đất. Bạn bè trong trường không ai chơi với cậu, tất cả bọn họ đều tìm cách bắt nạt chú heo nhỏ tội nghiệp cho tới khi cậu gặp bạn cáo – học sinh mới chuyển vào lớp và lúc nào cũng cắm cúi vẽ hí hoáy trong cuốn sổ bí mật. Chú heo con hạnh phúc vì cuối cùng đã có người bạn thân nhưng không may xảy ra sự hiểu nhầm giữa hai người khiến cậu đau đớn vì bị người bạn mới lừa dối. Nỗi đau khổ khiến nhân vật heo con chán nản và bỏ bê luôn công việc quan trọng của mình, làm cho đám sương mù tấn công cả dân làng, khắp nơi đều là tiếng khóc và tiếng la hét sợ hãi. Thật may mắn, heo con nhận ra được mình đã hiểu lầm bạn cáo vì thế cậu đã quyết định dùng hết sức của mình, dũng cảm đi cứu lấy bạn bè cùng thị trấn bằng cách đi đến cối xay gió và thổi đám sương độc ác bay đi. Một câu chuyện nhân văn tươi đẹp, giàu ý nghĩa cùng với hình ảnh nhân vật dễ thương và được tô điểm bằng những màu sắc rực rỡ. Một điều đáng kinh ngạc là bộ phim được làm từ hơn 8.000 bức tranh của các họa sĩ tài năng hợp tác với hai đạo diễn Robert Kondo và Dice Tsutsumi. The Dam Keeper là sự kết hợp với lối vẽ tay truyền thống với những nét cọ màu sắc tươi sáng mang đến cho người xem phong cách hoạt họa đặc trưng điển hình như những tác phẩm trước đây của bộ đôi Kondo và Tsutsumi. (Cả hai người từng là họa sĩ cho các bộ phim hoạt hình nổi tiếng được rất nhiều người biết đến như Ice Age, Ratatouille, Monsters University và Toy Story 3). Ngoài ra bộ phim được thực hiện qua việc dựng những bức tượng nhân vật bằng đất sét để cho ra những thước phim thêm sống động. Dưới đây là một vài hình ảnh về quá trình làm phim hoạt hình The Dam Keeper được Comic Media Academy sưu tầm từ trang website chính thức của bộ phim: thedamkeeper.com. Những ảnh phác thảo ban đầu của nhân vật chính – Chú heo con dũng cảm Mọi nhân vật đều được nặn bằng đất sét tỉ mỉ Cối xay gió – nơi chú heo con sinh sống và bảo vệ thị trấn Chiếc xe buýt mà chú heo bé nhỏ dùng để đi học Hình ảnh đoàn làm phim The Damn Keeper Trailer chính thức của The Dam Keeper được đăng trên kênh The Dam Keeper tại website Youtube The Dam Keeper: Official Trailer #1 The Dam Keeper: Official Trailer #2 Ngoài ra, trong kênh của Tonko House trên trang Youtube có chia sẻ rất nhiều những đoạn video ngắn về quá trình thực hiện từng khâu trong phim có thể giúp ích rất nhiều cho các bạn học viên tại Comic Media Academy và những bạn có đam mê mãnh liệt trong giới làm phim hoạt hình. Making of The Dam Keeper Short Making Of “PIG: The Dam Keeper Poems” #1– Tonko House’s New Series by Erick Oh Making Of “PIG: The Dam Keeper Poems” #2 — Tonko House’s New Series by Erick Oh >>> Tìm hiểu thêm: Khóa học làm phim hoạt hình 3D chuyên nghiệp Phạm Hoàng Ngọc dịch và tổng hợp

Disney mua lại hãng Fox The Simpson

Hình ảnh Donald Trump trong ngày đắc cử Tổng thống, Disney thu mua 21st Century Fox, Google thống trị toàn cầu,… đều trùng lắp với mọi khung hình trong bộ phim hoạt hình nổi tiếng The Simpsons. The Simpsons (Gia đình Simpson) là bộ phim hoạt hình được nhiều người yêu thích, không phân biệt lứa tuổi. Thực chất, đây là chương trình hài kịch tình huống hoạt họa nổi tiếng của Hoa Kỳ, được trình chiếu lâu nhất. Mặc dù là phim hoạt hình có những yếu tố hài hước, nhưng The Simpsons còn ẩn chứa sự châm biếm tinh tế, sâu sắc về nhiều khía cạnh đặc biệt của cuộc sống, nhất là lối sống của tầng lớp lao động, trung lưu Mỹ, cùng văn hóa và xã hội Mỹ. Không chỉ được yêu thích, The Simpsons còn khiến công chúng kinh sợ với những lần tiên đoán tương lai. Có rất nhiều phân cảnh trong phim cực kỳ trùng khớp với thực tế hiện tại, mặc cho nó đã công chiếu từ năm 1989. Ekip làm phim hoạt hình The Simpsons như những nhà tiên tri tài năng. Hãy điểm qua 11 lần tiên đoán thú vị của The Simpsons nhé! 1. Đồng hồ thông minh – Smart watch Nguồn: cheatsheet.com Trong tập Lisa’s Wedding phát hành năm 1995, chắc hẳn mọi người còn nhớ đến phân cảnh vị hôn phu của Lisa đã ra ngoài và gọi một cuộc điện bằng thiết khá lạ so với thời điểm lúc bấy giờ. Đó chính là hiện thân đơn giản của chiếc đồng thông minh ra đời 19 năm sau đó. 2. Camera hành trình Nguồn: reddit.com Tập phim Homer and Apu năm 1994 có cảnh Homer được yêu cầu đội một chiếc mũ cồng kềnh với một chiếc camera ẩn ở bên trong với mục đích theo dõi hành vi bí mật cần ghi lại. 20 năm sau, thế giới đón chào sự xuất hiện của GoPro, khởi đầu của camera hành trình nhỏ gọn tiện lợi. 3. Sự thống trị của Google Nguồn: pinterest.com Lisa từng nói: “Google, dù mi đã thâu tóm tâm trí của nửa phần dân số thế giới, nhưng ta cũng không thể phủ nhận rằng mi rất toàn diện trong vai trò của một bộ máy tìm kiếm.”. Thời điểm tập phim có tình huống đề cập đến sự phát triển của Google thì ông lớn công nghệ vẫn chưa đủ sức mạnh như hiện tại. Lúc ấy, Google chưa thể chắc chắn về thành công của mình chứ chưa nói đến vị thế to lớn như bây giờ. 4. Gọi video Nguồn: twitter.com Cách thức gọi video có vẻ như đã dần trở nên quen thuộc trong đời sống hiện đại ngày nay. Thế nhưng, The Simpsons đã sớm đoán ra việc này khi có cảnh Lisa liên lạc với mẹ qua một chiếc điện thoại quay số cổ điển và có thêm màn hình để hiển thị hình ảnh trực tiếp với nhau. 5. Những vấn đề của Hy Lạp tại châu Âu Nguồn: pinterest.com Năm 2015, Hy Lạp rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính, ảnh hưởng đến cả châu Âu. Đối mặt với tình trạng này, toàn bộ khối EU dường như đều đồng nhất với ý định “loại Hy Lạp ra khỏi cuộc chơi”. Lục lại những tập phim của The Simpsons, khán giả bàng hoàng nhận ra nhà sản xuất của phim đã nhìn thấy tương lai ảm đạm của quốc gia này tại cộng đồng chung EU. Theo đó, một tập phim vào năm 2013 với hình ảnh Homer Simpson được lên sóng truyền hình và đoạn tin chạy tít ở chân màn hình lại có dòng “Châu Âu đang rao bán Hy Lạp trên eBay”. 6. Cá 3 mắt do nhiễm phóng xạ Nguồn: simpsons.wikia.com Bart Simpson từng bắt được một con cá có 3 mắt do ảnh hưởng phóng xạ từ nhà máy điện hạt nhân Springfield trong một tập phim năm 1990. Đến năm 2011, một anh chàng ở Argentina cũng đã bắt được một con cá 3 mắt không khác con cá đã xuất hiện trong The Simpsons. 7. Những vụ trộm mỡ Một trong những tập phim hài hước nhất của The Simpsons phải kể đến phân cảnh bố con nhà Simpson ăn trộm mỡ vào năm 1998. Cảnh gây cười này đã trở thành sự thật khi 10 năm sau đó, có đến 7 vụ trộm mỡ đã diễn ra trong năm 2011 và 2012. 8. Những chiếc máy bỏ phiếu bầu cử Nguồn: pinterest.co.uk Tập phim năm 2008 đã xuất hiện những chiếc máy bỏ phiếu bầu cử trong sự kiện tranh cử tổng thống Mỹ. Những chiếc máy cũng đã xuất hiện ở đời thực vào năm 2012. Và đặc biệt hơn nữa, The Simpsons đã tiên đoán đúng kết quả khi số phiếu bầu cử nghiêng về đảng Dân chủ cũng như việc ông Obama tái đắc cử trong cùng năm. 9. Bê bối thịt ngựa vào năm 2013 Nguồn: googlenews.vn Sự kiện trường tiểu học Springfield bị tố đem ngựa ra làm thức ăn cho học sinh đã xuất hiện từ một tập phim năm 1994 của The Simpsons. 20 năm sau, câu chuyện về việc sử dụng thịt ngựa làm thức ăn đã thành thực tế khi nó xảy ra ở Ai-Len và Anh Quốc. 10. Tổng thống Donald Trump đắc cử Nguồn: twitter.com Cả thế giới năm 2017 bàng hoàng khi Donald Trump, một người vốn nổi tiếng trong giới giải trí và kinh tế lại trở thành người đứng đầu Nhà Trắng. Chiến thắng của ông Trump khiến cho nhiều người bất ngờ. Bởi trong cuộc chạy đua tranh cử Tổng thống Mỹ, ông Trump được dự đoán từ đầu khó có thể đấu lại những nhà chính trị khác, nhất là Cựu Đệ Nhất phu nhân tổng thống Mỹ, Hillary Clinton. Công chúng càng khiếp sợ hơn khi nhận ra

Phim hoạt hình Con Rồng Cháu Tiên gây sốt thời gian gần đây

Con Rồng Cháu Tiên là bộ phim hoạt hình Việt Nam gây ấn tượng nhất trong thời gian gần đây khi đạt 5 triệu lượt xem trên Youtube. Được biết, bộ phim này nằm trong chuỗi các chương trình quảng bá dự án văn hóa Việt của Biti’s. Liệu đây sẽ là tín hiệu tích cực đưa hoạt hình Việt Nam phát triển? >>> Tìm hiểu thêm: Khóa học làm phim hoạt hình 3D chuyên nghiệp Hoạt hình Việt Nam đứng trước cơ hội chuyển mình khi doanh nghiệp tư nhân vào cuộc. Nguồn: mtv.vn. Sức hút của phim hoạt hình đối với khán giả Việt đã thay đổi khá lớn trong 10 năm qua. Thống kê cho thấy, doanh thu phòng vé phim hoạt hình tại Việt Nam đã tăng từ 2-12% trong 10 năm. Cùng với đó, phim hoạt hình chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong danh sách phim chiếu rạp ở nước ta. Trong năm 2017, loạt phim điện ảnh gây sốt thế giới được công chiếu ở Việt Nam xuất hiện khá nhiều phim hoạt hình nước ngoài, phần lớn là từ Hollywood như The Boss Baby, Smurfs, The Lost Village hay gần nhất là Coco. Song, có thể dễ dàng nhận ra số liệu trên chỉ đến từ các bộ phim hoạt hình nước ngoài. Trong khi, phim hoạt hình Việt Nam 10 năm qua vẫn chưa tạo ra sự đột phá mạnh mẽ nào. Mặc dù, nhiều studio sản xuất phim hoạt hình của người Việt đã xuất hiện và có một vài tín hiệu tích cực, nhưng đó vẫn chỉ là một “ giọt nước nhỏ” giữa cả biển phim quốc tế. Vòng lẩn quẩn của phim hoạt hình Việt Nam Bên cạnh tốc độ phát triển chóng mặt của thế giới, hoạt hình Việt Nam vẫn đạt mức ổn định khi có trung bình khoảng 10-15 phim được sản xuất mỗi năm. Tuy nhiên, những bộ phim hoạt hình này chỉ có độ dài từ 10-15 phút (dài nhất là 30 phút của Hào Khí Thăng Long) với đủ tạo hình từ cắt giấy, 2D, 3D và đa dạng chủ đề từ cổ tích, lịch sử đến ngụ ngôn, con người đến loài vật,… Tất cả đều được trình chiếu trên sóng truyền hình do Hãng Phim hoạt hình Việt Nam sản xuất. Ngoài ra, hãng cũng rất nỗ lực khi đưa phim đến gần hơn với lứa tuổi thiếu nhi bằng cách thành lập trang web riêng để cập nhật các phim đã ra mắt theo từng năm. Rạp chiếu Thánh gióng ra mắt vào năm 2014 chuyên dành cho phim hoạt hình cũng nằm trong những cố gắng của Hãng với phim hoạt hình nước nhà. Phim hoạt hình do Hãng phim hoạt hình Việt Nam sản xuất. Nguồn: youtube.com. Song, những nỗ lực này cũng không đủ để đáp ứng nhu cầu của trẻ em ngày nay. Loạt kênh giải trí như Disney, Cartoon Network hay các kênh truyền hình thuần Việt như HTV3 Dreams TV, Kid TV,.. với những bộ phim hoạt hình điện ảnh có nội dung hấp dẫn và hình ảnh đẹp mắt hơn hẳn sản phẩm của Hãng phim hoạt hình Việt Nam. Đó là lý do những bộ phim do Hãng thực hiện không mặn mà lắm với trẻ em. Hơn nữa, đối tượng khán giả mà Hãng phim hoạt hình Việt Nam hướng đến vẫn chưa chính xác khi người xem phim hoạt hình không chỉ bó hẹp ở trẻ em. Nghệ sĩ Nhân dân Hà Bắc, đạo diễn hơn 40 năm kinh nghiệm làm phim hoạt hình chia sẻ: “Ở nước ta, hoạt hình chủ yếu do Nhà nước đặt hàng nên cơ chế làm phim phụ thuộc quá nhiều vào chính sách đầu tư, phát hành của Nhà nước. Đôi khi còn rất quan liêu. Trong khi chi phí để làm ra một bộ phim hoạt hình chừng 10 phút là rất đắt. Tư nhân muốn đầu tư thì cũng ngại phim không có đầu ra. Muốn có đầu ra thì phải đảm bảo chất lượng nội dung, hình ảnh để thu hút nhà đài, nhà phát hành rạp (thời lượng ít nhất 60 phút), tính thương mại.” Để đảm bảo những tiêu chí trên cần phải có đầu tư, tiếp tục quay ngược lại vấn đề lo ngại đầu tư của doanh nghiệp. Như vậy, hoạt hình Việt Nam cứ thế xoay quanh một vòng lẩn quẩn, chưa tìm được lối ra. Sẽ chuyển mình mạnh mẽ với sự xuất hiện của doanh nghiệp Vào năm 2016, Colory Studio thông báo khởi động dự án phim hoạt hình chiếu rạp “Dưới bóng cây: Hành trình trở về”. Cùng với đó, Hãng phim hoạt hình Việt Nam cũng phát triển dự án phim hoạt hình chiếu rạp “Tôi là Bê tô”. Loạt thông tin này khiến khán giả Việt khá hào hứng và mong chờ. Song, đến thời điểm hiện tại, vẫn chưa thấy có một tín hiệu nào cho 2 dự án trên. Phim hoạt hình Dưới bóng cây của Colory Animation Studio. Nguồn: vi.wikipedia.org. Hoạt hình Việt Nam cứ thế im lặng cho đến thời điểm cuối năm 2017, Con Rồng Cháu Tiên ra mắt và thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Được biết, bộ phim hoạt hình này do Biti’s, thương hiệu giày dép lâu đời của Việt Nam thực hiện. Nội dung của phim không chỉ đơn thuần xoay quanh câu chuyện của Rồng – Tiên, mà còn xuất hiện những tình tiết kịch tính, tạo sự bất ngờ cho khán giả. Phim đã có hơn 10 triệu lượt xem trên các kênh online, hàng chục nghìn lượt yêu thích, chia sẻ trên Youtube và gần 600.000 người bình luận trên mạng xã hội, với phần lớn là những phản hồi tích cực. Ngoài Con Rồng Cháu Tiên, ngành công nghiệp hoạt hình Việt Nam còn chứng kiến sự xuất hiện của Hãng

Phim hoạt hình hay The Bigger Picture film poster

Nguồn: filmschoolradio.com Ngoài những bộ phim được thực hiện công phu bằng kỹ thuật làm phim hoạt hình 3D tiên tiến được sản xuất với số lượng nhiều như ngày nay. Chắc hẳn người xem sẽ nhớ nhung về những thước phim hoạt hình được vẽ tay 2D tỉ mỉ ngày xưa đã từng một thời thịnh hành trong giới làm phim hoạt hình. Bộ phim hoạt hình The Bigger Picture chính là một kết hợp táo bạo, hoàn hảo giữa việc vẽ tranh 2D trên tường cùng mô hình giấy để tạo ra những đoạn phim 3D thú vị, ngoài ra điểm đặc biệt của bộ phim là được làm theo dạng hoạt hình tĩnh vật (stop-motion) – một cách làm phim đang khá ưa chuộng hiện nay. The Bigger Picture được sản xuất bởi National Film and Television School (NFTS), dưới sự thực hiện của nữ đạo diễn Daisy Jacobs, cô cũng là biên kịch của bộ phim này cùng với Jennifer Majka. The Bigger Picture được phát hành vào ngày 21/5/2014 tại Pháp và phát hành tại Mỹ vào ngày 11/10/2014 tại sự kiện Hamptons International Film Festival. Bộ phim đã chiến thắng giải thưởng Best British Short Animation tại lễ trao giải lần thứ 68 của British Academy Film Awards và lập tức lọt vào vị trí đề cử cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) của giải thưởng Oscar lần thứ 87, năm 2015. Phim hoạt hình The Bigger Picture có độ dài tám phút được đạo diễn Daisy Jacobs sử dụng hình ảnh nhân vật cao hai mét để diễn tả câu chuyện mang hơi hướng hài kịch đen (Dark humor) trào phúng kể về mâu thuẫn gay gắt cùng sự ghen tỵ giữa hai anh em Richard và Nick trong việc chăm sóc người mẹ già yếu sắp mất của họ. Người anh tên Nick thì may mắn và thành đạt, anh ta và luôn được mẹ dành nhiều yêu thương hơn người em dù Nick ít quan tâm đến bà và lâu lâu mới quay về gia đình thăm người thân. Ngược lại hoàn toàn với Nick là người em trai tên Richard – cũng là nhân vật chính của The Bigger Picture. Chính vì sự thương yêu không công bằng của người mẹ dành cho anh mình đã làm dấy lên sự khó chịu trong lòng của Richard. Khi bản thân anh đã dành hết thời gian để chăm sóc cho người mẹ ốm yếu của mình nhưng lại không được bà quan tâm bằng anh trai. Nữ đạo diễn trẻ Daisy Jacobs đã chia sẻ về lý do tại sao cô chọn đề tài nhạy cảm này để thực hiện bộ phim như sau: “Tôi nghĩ The Bigger Picture đã gợi lên điều quan trọng về cách chúng ta chăm sóc cha mẹ của mình khi bản thân chúng ta lớn lên. Theo tôi, mọi người có rất nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này, nhưng tôi nghĩ đây là điều cần phải nói lên thông qua bộ phim.” Nữ đạo diễn Daisy Jacobs và đồng nghiệp Chris Wilder. Nguồn: art-vibes.com Bộ phim gây sự thích thú cho người xem qua phương pháp làm phim hoạt hình độc đáo với sự kết hợp tuyệt vời giữa nghệ thuật vẽ tranh 2D ghép với mô hình giấy và 3D (tên tiếng anh gọi là 3D Stop Motion Animation). Dưới đây là một vài hình ảnh được Comic Media Academy sưu tầm sẽ cho chúng ta thấy sự kỳ công của đoàn làm phim khi thực hiện The Bigger Picture. Quang cảnh khi cả đoàn đang thực hiện bộ phim. Nguồn: art-vibes.com & animamundi.com.br Những nhân vật đều được vẽ tay và gắn những mô hình giấy. Nguồn: thisiscolossal.com Với việc kết hợp như vậy sẽ cho ra những thước phim sống động nghệ thuật Comic Media Academy chia sẻ đến bạn đọc đoạn phim đầy đủ được đoàn làm phim đăng công khai trên kênh Vimeo của đạo diễn Daisy Jacobs cùng với đoạn phim The Bigger Picture. The Bigger Picture TRIK SHOW: Making Of Daisy Jacobs The Bigger Picture >>> Tìm hiểu thêm: Khóa học làm phim hoạt hình 2D – 2D Animation Artist Phạm Hoàng Ngọc dịch và tổng hợp

Phim hoạt hình hay Me and My Moulton 2

Poster của bộ phim. Nguồn: filmaffinity.com Me and My Moulton là phim hoạt hình ngắn dí dỏm và hài hước nhưng đầy sự xúc động của Torill Kove nữ đạo diễn, biên kịch người Canada và Na Uy. Me and My Moulton được sản xuất bởi Mikrofilm hợp tác cùng National Film Board of Canada. Bộ phim ra mắt lần đầu tiên tại sự kiện Toronto International Film Festival vào tháng 9/2014 và tại Na Uy vào ngày 3/12/2014. Với độ dài 14 phút, Me and My Moulton kể về mùa hè những năm giữa thập niên 60 tại Na Uy. Một bé gái bảy tuổi hỏi cha mẹ rằng liệu cô và hai chị em của mình có thể có một chiếc xe đạp như bao bạn cùng lứa hay không. Me and My Moulton dưới cách nhìn của nhân vật cô bé sẽ cung cấp cho người xem cái nhìn thoáng qua về những suy nghĩ của nhân vật chính khi cô bé hoc phải vật lộn với suy nghĩ bản thân của mình rằng gia đình của cô không giống như những gia đình bình thường khác. Khi quan sát gia đình người bạn thân rồi so sánh với gia đình khác thường của mình, cô nhận ra rằng cha mẹ của mình vẫn yêu thương các con nhưng đôi lúc họ lại quá vô tâm làm cho cô gái nhỏ với tâm tính nhạy cảm lúc nào cũng lo lắng và bối rối về gia đình. Bộ phim như một cuốn tự truyện hài hước được dựa theo những kí ức của nữ đạo diễn Torill Kove về gia đình của mình khi cô còn nhỏ. Me and My Moulton chia sẻ cảm xúc của nữ đạo diễn Kove khi bé chỉ mong muốn được giống như những người bạn gái khác trong khu phố. Nhưng cha mẹ cô vốn là những kiến trúc sư theo phong cách hiện đại nên họ luôn làm những điều rất khác biệt với mọi người, như việc tổ chức lễ mừng sinh nhật cho cô theo phong cách không giống ai. Khi các chị em Kove cầu xin một chiếc xe đạp, cha mẹ của họ đã làm cả ba người ngạc nhiên với một chiếc xe Moulton xuất xứ từ Anh quốc (loại xe đạp với thiết kế khung hình độc đáo và bánh xe nhỏ xíu). >>> Tìm hiểu thêm: Khóa học làm phim hoạt hình 3D chuyên nghiệp Nữ đạo diễn Torill Kove. Nguồn: epkurl.com “Tôi đã có cảm xúc vừa yêu, vừa ghét với chiếc xe đạp đó”, nữ đạo diễn Torill Kove chia sẻ thêm “Tôi nhớ ba chị em tôi đã có những bài tập đi xe tại trường với chiếc xe này nhưng hoàn toàn bất lực! Cả gia đình của tôi đã chia sẻ trong việc sử dụng nó cho đến khi chiếc xe bị mất cắp, điều đó từng khiến tôi cảm thấy rất kỳ lạ, bởi vì ai mà đi ăn cắp một chiếc xe bất thường như vậy chứ?” Bộ phim với màu sắc tươi sáng cùng những kỷ niệm gia đình được diễn tả một cách ấm áp đã vinh dự nhận được vị trí đề cử cho giải thưởng Phim hoạt hình ngắn hay nhất tại lễ trao giải Oscar năm 2015. Trước đó, nữ đạo diễn Torill Kove đã có tác phẩm My Grandmother Ironed the King’s Shirts cũng được đề cử tại hạng mục này tại Oscar năm 2000 và một tác phẩm chiến thắng tại Oscar năm 2007 có tựa là The Danish Poet. Hãy cùng Comic Media Academy ngắm nhìn những tấm hình về các bản vẽ của Me and My Moulton và văn phòng làm việc của đạo diễn Torill Kove tại Mikrofilm. Nơi làm việc của đạo diễn Torill Kove tại Mikrofilm Gia đình của nhân vật chính Me and My Moulton Chiếc xe đạp Moulton của ba chị em. Nguồn: mikrofilm.no & filmaffinity.com Đoạn video của FERNTV phỏng vấn nữ đạo diễn Torill Kove về quá trình làm phim hoạt hình Me and My Moulton tại sự kiện Toronto International Film Festival (TIFF) năm 2014. Ngoài ra, các bạn có thể xem trailer giới thiệu của Me and My Moulton cùng những đoạn phim hoạt hình ngắn khác của nữ đạo diễn tại website chính thức của bộ phim: http://meandmymoulton.com Phạm Hoàng Ngọc dịch & tổng hợp

Poster Feast 2

Nguồn: disneyanimation.com Tại lễ trao giải Oscar lần thứ 87, phim hoạt hình Big Hero 6 của đạo diễn Don Hall, Chris Williams và Roy Conli đã đoạt giải thưởng Phim hoạt hình hay nhất (Best Animated Feature Film). Cũng ngay tại buổi lễ này, Feast – bộ phim hoạt hình ngắn được sản xuất cùng hãng – Walt Disney Animation Studios – đã vinh dự đoạt vị trí cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film). Hãy cùng Comic Media Academy tìm hiểu về bộ phim hoạt hình ngắn về chú chó đáng yêu của chúng ta. Feast được thực hiện bởi đạo diễn Patrick Osborne cùng biên kịch Raymond S. Persi và Nicole Mitchell. Bộ phim được sản xuất bởi Walt Disney Animation Studios, ra mắt lần đầu tiên vào ngày 10/6/2014 tại Annecy International Animated Film Festival và phát hành tại rạp chiếu phim cùng với phim hoạt hình Big Hero 6 vào ngày 7/11/2014 tại Mỹ. Phim hoạt hình ngắn này đã chiến thắng tại hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải Oscar lần thứ 87 trước bốn đối thủ nặng kí. Sau đó Feast tiếp tục ẵm trọn giải thưởng tại 42nd Annie Awards cho vị trí Annie Award for Best Animated Short Subject. Nội dung phim kể về một chú chó con giống Boston (tên tiếng anh là Boston Terrier) lang thang giữa đường phố kiếm ăn tại các bãi rác. Thật may mắn, chú chó con ấy được một chàng trai James tốt bụng cưu mang và được đặt tên là Winston. Sau đó, bộ phim xuyên suốt là những bữa ăn mà người chủ chia sẻ cho chú chó con bé bỏng của mình và cuộc sống đơn giản và hạnh phúc của James và Winston. Nhưng ngày qua ngày, anh chàng đã động lòng trước một cô gái tên Kirby đang làm việc tại một nhà hàng địa phương. Cô thuyết phục James ăn kiêng và khuyên anh cần có lối sống lành mạnh hơn, điều đó khiến cho Winston buồn rầu vì bị bắt ăn những loại rau chú không thích thay cho trứng và thịt ba chỉ như trước đây. Không lâu sau đó, James và Kirby chia tay và anh chàng rơi vào trầm cảm, sống buông thả bản thân và không còn chú trọng ăn uống như trước đây nữa. Nhận ra tinh thần khác thường của chủ, chú chó Winston quyết định tìm Kirby bằng việc dựa theo mùi ngò tây mà ngày trước được cô cho ăn và dắt James tới gặp cô gái. Nhờ chú chó bé nhỏ tinh khôn, cả hai đã làm hòa và kết hôn ngay sau đó. Ý tưởng hình thành bộ phim Feast đáng yêu này từ đâu ? Patrick Osborne chia sẻ về ý tưởng cho bộ phim hoạt hình ngắn Feast bắt đầu từ một ứng dụng có tên là 1secondeveryday, ứng dụng này cho phép người dùng ghi lại đoạn phim dài một giây cho mỗi ngày và chế tác những đoạn phim nhỏ đó thành một bộ phim. Osborne đã sử dụng chúng để tạo ra một đoạn phim ăn tối vào năm 2012, nhờ đó ông bật ra suy nghĩ có thể dựa vào ý tưởng này để thực hiện một bộ phim hoạt hình ngắn thú vị. Đạo diễn Patrick Osborne. Nguồn: wikimedia.org Feast được thực hiện qua hệ thống Meander, từng phát triển cho phim hoạt hình ngắn Paperman. Ngoài ra, phim còn được sử dụng Hyperion, hệ thống dựng hình được xây dựng cho bộ phim hoạt hình Big Hero 6. Nhân vật và bối cảnh trong phim được vẽ bằng những đường nét tự do, kết hợp với những khối màu sắc rực rỡ. Bộ phim bao gồm những phân cảnh ngắn được ghép lại với nhau và máy quay chủ yếu tập trung vào nhân vật chú chó Winston cùng đồ ăn của chú làm điểm trọng tâm cho câu chuyện. Dưới đây là những hình ảnh mà Comic Media Academy sưu tầm được về quá trinh tạo dựng bộ phim Feast trong đoạn clip Making of Disney Feast Ảnh phác thảo về chú chó Winston và hai vị chủ nhân. Nguồn: cgmeetup.net Ngoài ra, người xem có thể tham khảo thêm hai đoạn phim dưới đây do đoàn làm phim Feast cung cấp, sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về quá trình làm phim hoạt hình của ekip cũng như nghe lời chia sẻ cảm nghĩ của đạo diễn Patrick Osborne. Design Night: Art in motion, talk by Patrick Osborne Making of Disney Feast Trailer của phim Feast Phạm Hoàng Ngọc Dịch và Tổng hợp

A Single Life 2

Nguồn: imdb.com A Single Life là một phim hoạt hình ngắn của 3 đạo diễn đến từ Hà Lan Marieke Blaauw, Joris Oprins và Job Roggeveen. Bộ phim được viết bởi biên kịch Marieke Blaauw và được sản xuất bởi studio hoạt hình Job, Joris & Marieke. A Single Life được ra mắt vào tháng 9/2014 tại Hà Lan và xuất hiện trong danh sách đề cử cho vị trí Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại Lễ trao giải Oscars 2015 (87th Academy Awards). Bộ phim có độ dài 3 phút ngắn ngủi kể về một cô gái trẻ tên Pia, người đã nhận được một chiếc đĩa nhạc bí ẩn có thể xoay chuyển thời gian, giúp cô có thể đi qua từ thời gian này đến thời gian khác trong cuộc đời của mình. Điều đặc biệt là bộ phim không có bất cứ đoạn đối thoại nào mặc dù xuyên suốt bộ phim vang lên bài hát chủ đề “A Single Life” của Happy Camper với Pien Feith. Marieke Blaauw, Joris Oprins và Job Roggeveen đã sử dụng Cinema 4D và After Effects làm công cụ chính của họ khi làm phim hoạt hình A Single Life. Nhóm ba người đã khéo léo cho người xem thấy Pia từ trẻ hóa sang một phụ nữ lớn tuổi rồi ngược lại. Bộ phim ban đầu được làm ra cho Ultrakort, một dự án của Quỹ điện ảnh tại Hà Lan và Rạp chiếu phim Pathé nhằm quảng bá cho bộ phim hoạt hình ngắn khác. Song, bộ phim đã thu hút hơn một triệu người ở đây và tiếp tục được chiếu tại các liên hoan phim trên toàn thế giới. Phải mất 3 tháng để cả 3 đạo diễn hoàn thiện bộ phim A Single Life toàn vẹn. Theo lời tâm sự của họ, thử thách lớn nhất khi làm bộ phim này là làm cách nào để chứng minh cho người xem thấy được Pia già đi qua 5 giai đoạn của cuộc đời trong một khoảng thời gian rất ngắn. Bởi vì khi Pia thay đổi, vóc dáng người và mái tóc cùng quần áo của cô cũng phải thay đổi theo thời gian. Bản vẽ phác thảo cho A Single Life. Nguồn: sohosoho.tv Thay vì tạo ra một bảng phân cảnh hoặc động tác chi tiết, nhóm nghiên cứu quyết định ước tính khoảng thời gian của mỗi cảnh và viết mô tả về cảnh quay trên một dòng thời gian được tạo ra trong After Effects. Oprins giải thích: “Dòng thời gian trong After Effects là nơi chúng tôi thêm thắt đoạn phim cho đến khi bộ phim kết thúc.” Nguồn: studiodaily.com “Chúng tôi đã liên tục điều chỉnh các vị trí của máy ảnh và chỉnh sửa trong khi cả ba đang làm các hoạt động cho các cảnh, điều đó giúp công việc hoàn thiện rất tốt bằng cách sử dụng các công cụ thời gian trực quan của Cinema.” Để làm phim trong khung thời gian hiệu quả hơn, nhóm đã sử dụng xRefs (external reference files), ngoài ra còn sử dụng thêm công cụ placeholder. Các đạo diễn Marieke Blaauw, Joris Oprins và Job Roggeveen. Nguồn: sohosoho.tv Oprins chia sẻ thêm: “Điều này hoàn toàn mới mẻ với cả ba chúng tôi và phải mất một khoảng thời gian để làm quen, nhưng chúng tôi thực sự hạnh phúc với kết quả đạt được.” Dưới đây Comic Media Academy chia sẻ cho bạn đọc đoạn video phỏng vấn Job, Joris & Marieke về ba bộ phim của họ gồm A Single Life, MUTE và [Otto] được đăng trên kênh tạp chí hoạt hình Skwigly tại Youtube. Trailer của bộ phim A Single Life Phạm Hoàng Ngọc Dịch và Tổng hợp

Phim hoạt hình The Longest Day Care 4

Nguồn: imdb.com The Longest Daycare với thời lượng 5 phút là một sản phẩm theo định dạng 3D dựa theo chương trình truyền hình hài kịch tình huống hoạt họa nổi tiếng của Hoa Kỳ – The Simpsons (một trong những chương trình được chiếu lâu nhất, bắt đầu từ ngày 17/12/1989 trên hệ thống truyền hình Fox Network cho đến giờ). Bộ phim hoạt hình ngắn này có kịch bản gốc từ nhà sản xuất lâu đời cho The Simpsons, James L.Brooks và đạo diễn thực hiện là David Silverman. Các công ty sản xuất bộ phim bao gồm: Gracie Films, Film Roman và 20th Century Fox Animation. Ngoài ra, bên phía nhà sản xuất ngoài James L. Brooks còn có 4 thành viên khác gồm: Matt Groening, Al Jean, Richard Raynis, Richard Sakai. Đội ngũ biên kịch gồm 6 người: James L. Brooks, Matt Groening, Al Jean, David Mirkin, Michael Price, Joel H. Cohen. The Longest Daycare được chiếu rạp cùng với Ice Age: Continental Drift, ra mắt vào ngày 13/7/2012. Ngay sau đó, bộ phim nhận được những lời khen tích cực, ca ngợi về nội dung và hình ảnh từ các chuyên gia và khán giả khắp mọi nơi. The Longest Daycare đã có tên trong danh sách 5 ứng cử viên đề cử cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải Oscar 2013. Tuy nhiên, cuối cùng bộ phim đã để vuột mất vị trí danh giá cho Paperman. Nguồn: awn.com Nhân vật chính trong The Longest Daycare là Maggie Simpson, cô bé được mẹ ghi danh vào một cơ sở chăm sóc. Ở đấy cô bé Maggie quen biết cậu nhóc dữ dằn tên Gerald, có sở thích hành hạ côn trùng. Vô tình, cô nhóc Maggie bắt gặp được một con sâu bướm và tìm mọi cách giúp chú bướm thoát khỏi cánh tay tàn nhẫn của Gerald. Nội dung bộ phim đầy kịch tính, lôi cuốn sẽ khiến bạn không thể dời mắt được trước hành trình rượt đuổi gay cấn giữa Maggie và cậu nhóc Gerald. Nguồn gốc của The Longest Daycare xuất hiện khi nhà sản xuất James L. Brooks của The Simpsons đề xuất ý tưởng làm phim hoạt hình ngắn và phát hành nó trong các rạp chiếu phim. Ông muốn câu chuyện về cô bé Maggie này như một món quà từ nhà sản xuất cho các khán giả hâm mộ bộ phim The Simpsons. Al Jean chia sẻ tác phẩm như một lời cảm ơn từ đội ngũ đoàn làm phim với những người hâm mộ chương trình trong suốt 25 năm qua. David Silverman cho biết, ông thực hiện bộ phim này với định dạng 3D theo ý kiến đóng góp của Richard Sakai cùng một vài người khác trong tổ sản xuất. Họ muốn thử nghiệm 3D lên bộ phim và muốn nhìn xem The Simpson sẽ như thế nào khi được làm 3D. “Không có lý do cụ thể gì cả, đây chỉ là một kiểu thử nghiệm ý tưởng. Chúng tôi đã thử nó và chúng tôi thích thú với điều này và bộ phim trở nên mới mẻ hơn.” Đạo diễn David Silverman. Nguồn: awn.com Về quá trình sản xuất The Longest Daycare, ông nói: “Giai đoạn sản xuất bộ phim là từ tháng 3 đến tháng 5. Tuy tôi không có một đội ngũ khổng lồ nhưng có những anh em rất nhiều kinh nghiệm. Điều quan trọng nhất là tôi có một đội ngũ chuyên nghiên cứu về 3D, do Eric Kurland đứng đầu, người đã thực hiện khá nhiều dự án về 3D.” Ông cũng nói rằng không thay đổi hình ảnh mà vẫn giữ nguyên và chia ra các bộ phận tách biệt tại phòng thu ở Hàn Quốc. Tùy theo mỗi cảnh mà họ ghép các bộ phận cơ thể cho phù hợp. “Eric nói việc đó đó không cần thiết. Chúng ta có thể thao tác trong After Effects nếu chúng ta muốn tách cụ thể hơn nữa. Tôi đang rất e ngại về thời gian sản xuất của chúng tôi bởi vì bộ phim đã được thực hiện khá nhanh và tôi không muốn mọi người nghĩ ‘Ồ, chúng ta chỉ cần loại ra nó’ Chúng tôi không muốn nghe thấy điều đó.” Nguồn: awn.com Comic Media Academy chia sẻ đến các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình đoạn phim The Longest Daycare đầy đủ được đăng trên Animation on FOX tại Youtube. Phỏng vấn David Silverman ‘The Simpsons’ về ‘The Longest Daycare’ Phạm Hoàng Ngọc dịch và tổng hợp

Phim hoạt hình Paperman 19

Nguồn: artofdisney.canalblog.com Paperman là bộ phim hoạt hình ngắn hài hước, lãng mạn, được thực hiện bởi đạo diễn John Kahrs cùng hai biên kịch gồm Clio Chiang, Kendelle Hoyer. Walt Disney Animation Studios là studio sản xuất bộ phim dưới sự cho phép của nhà sản xuất Kristina Reed và phát hành tại Mỹ vào ngày 2/11/2012 cùng với Wreck-It-Ralph. Bộ phim là sự pha trộn giữa hoạt hình truyền thống và hoạt hình máy tính, chính sự kết hợp ấy đã giúp bộ phim được đánh giá cao và nhận giải thưởng Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải Oscar lần thứ 85, năm 2013. Ngoài ra, bộ phim còn đạt giải Best Animated Short Subject tại buổi lễ lần thứ 40 của Annie Awards. Đây là lần đầu tiên sau 43 năm kể từ chiến thắng của It’s Tough to be a Bird, Disney mới lại giành được giải thưởng ở hạng mục này tại Oscar lần nữa. Trailer Paperman Nội dung của Paperman khởi đầu bằng cảnh ở ga tàu điện vào thời điểm của thập niên 1940 tại thành phố New York, một chàng trai nhân viên văn phòng bất ngờ gặp một cô gái xinh đẹp tại đây và cô khiến anh ta bối rối và quyến luyến. Khi anh chàng chưa kịp bắt chuyện làm quen vì còn ngại ngùng thì cô nàng không may đi mất, chỉ để lại một vết son môi vô tình in trên một tờ giấy của chàng như lời tạm biệt. Bộ phim gợi lên những nỗi tiếc nuối từ những cuộc gặp gỡ tình cờ mà bất kỳ ai trong chúng ta đều có thể gặp phải giữa dòng đời để rồi vì sự e ngại mà vuột mất cơ hội. Đạo diễn John Kahrs – một cựu họa sĩ của hãng Pixar và hiện đang là chuyên gia hoạt hình của Disney – chia sẻ cảm hứng để anh thực hiện bộ phim hoạt hình ngắn đầu tay của mình chính là những kỷ niệm của ngày tháng tuổi trẻ khi anh sống cô đơn lẻ loi giữa thành phố New York tấp nập người qua lại. Đạo diễn John Kahrs. Nguồn: artofdisney.canalblog.com Paperman với hình ảnh đen trắng đơn giản nhưng vô cùng đẹp đẽ và nên thơ, còn là sự kết hợp thử nghiệm lần đầu tiên giữa kỹ thuật vẽ tranh bằng tay và đồ họa vi tính trong cùng một nhân vật tại studio Disney. Theo các nhân viên khâu hoạt hình nhận xét, kỹ thuật này giúp hình ảnh vừa giữ được vẻ uyển chuyển của 2D truyền thống, vừa có chiều sâu được tạo ra từ các hình khối của công nghệ 3D tiên tiến. Nhà sản xuất Kristina Reed trả lời phỏng vấn cho biết các thành viên tham gia làm phim hoạt hình đã cùng nhau thảo luận rất nghiêm túc và làm việc chăm chỉ hết sức vất vả. Ngoài ra trong lúc làm Paperman cũng xảy ra trắc trở vì thiếu nhân công, bởi vì đa số các họa sĩ làm việc tại hãng Disney phải tập trung vào các bộ phim dài và dự án lớn. Cho đến khi các dự án lớn đó hoàn thành thì họ mới có thể trợ giúp cho đoàn làm phim thực hiện bộ phim ngắn như Paperman và chỉ có thể giúp trong vòng một đến hai tháng. Đó là một điều vô cùng khó khăn đối với đoàn làm phim lúc bấy giờ nhưng cuối cùng họ đã làm được và nhận được phần thưởng xứng đáng. Để người xem có thể có một cái nhìn thoáng qua về Paperman, Disney đã chia sẻ một vài hình ảnh phác thảo của bộ phim như sau. Phác thảo của Scott Watanabe. Nguồn: artofdisney.canalblog.com Phác thảo của Shiyoon Kim. Nguồn: artofdisney.canalblog.com Bối cảnh thiết kế bởi Helen Chen. Nguồn: artofdisney.canalblog.com Một vài bản phác thảo nhân vật của các họa sĩ khác. Nguồn: artofdisney.canalblog.com Hình ảnh trong quá trình làm Paperman. Nguồn: artofdisney.canalblog.com Comic Media Academy gửi đến bạn đọc và các học viên đoạn clip Paperman and the Future of 2D Animation để các bạn có thể tham khảo và dễ dàng nhìn thấy quá trình thực hiện Paperman của đoàn làm phim cùng sự nỗ lực của họ trong việc thay đổi hoạt hình lúc bấy giờ. Phạm Hoàng Ngọc dịch và tổng hợp  

Phim hoạt hình Head Over Heels 7

Nguồn: vimeocdn.com Head over Heels là bộ phim hoạt hình ngắn do đạo diễn, biên kịch phim người Anh, Timothy Reckart thực hiện vào năm 2012. Bộ phim được làm theo dạng stop motion với thời lượng 10 phút được sản xuất bởi Fodhla Cronin O’Reilly, khâu hoạt hình gồm hai người là Timothy Reckart và Sam Turner. National Film and Television School (NFTS) phát hành bộ phim vào ngày 24 tháng 5 năm 2012 tại Pháp. Head over Heels đã giành được giải Annie Award cho hạng mục Best Student film, sau đó đạt được Best European Animated Short tại lễ trao giải Cartoon d’Or. Không dừng tại đó, bộ phim đã có tên trong năm ứng cử viên sáng giá cho vị trí Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải Oscar tổ chức năm 2013. Sau khi được đề cử Oscar, bộ phim được phát hành cùng với mười lăm bộ phim ngắn khác cũng được đề cử tại giải, tại các rạp chiếu phim của ShortsHD. Vào tháng 3/2015, bộ phim đã được đăng trực tuyến đầy đủ tại Head over Heels TV.  Nội dung của Head over Heels rất thú vị, kể về đôi vợ chồng già Walter và Madge sau nhiều năm chung sống với nhau, họ đã quyết định tách riêng ra: Người chồng thì ngủ và sinh sống dưới sàn nhà, người vợ thì sống trên trần nhà. Khi Walter cố thuyết phục bạn đời của mình, sự cân bằng của họ đã tan biến. Ý tưởng về bộ phim là một sự đúc kết từ rất nhiều ý tưởng khác của Timothy Reckart, những điều mà anh nghĩ sẽ khiến cho bộ phim trở nên tuyệt vời hơn. Một câu chuyện về hai người nhìn thế giới một cách khác nhau nhưng họ vẫn phải tìm cách để sống với nhau. Đây là một cảm hứng có thể áp dụng cho bất kỳ sự bất đồng ý kiến ​​về chính trị, tôn giáo. Đạo diễn nhận định đây là một phép ẩn dụ tuyệt vời cho điều đó, không chỉ riêng về hôn nhân. Đạo diễn Timothy Reckart cùng đội ngũ làm phim. Nguồn: facebook.com/HeadOverHeelsFilm Đạo diễn Timothy Reckart cũng chia sẻ về quá trình làm phim Head over Heels. Anh kể bước đầu tiên là tập trung vào phác thảo, làm sao để dẫn đến kết thúc một cách rõ ràng, hợp lý. “Sau đó chúng tôi dành phần lớn thời gian tạo bảng phân cảnh và animatic, đây là quá trình rất dài. Tôi nghĩ rằng tầm khoảng bốn tháng để làm xong. Tuy không lâu lắm, nhưng bạn biết đấy, bộ phim này chỉ có mười phút. Chúng tôi đã trải qua một số bản nháp, chỉ cần liên tục rút gọn bớt nội dung, cố gắng làm cho nó càng ngắn càng tốt. Điều khó khăn khác là làm thế nào để kể câu chuyện mà không cần sử dụng bất cứ cuộc đối thoại nào.” Nguồn: facebook.com/HeadOverHeelsFilm Anh tâm sự thêm rằng mình đã dành 06 tháng cho việc làm phim hoạt hình, trong đó có năm tháng là bao gồm việc xây dựng bối cảnh và đạo cụ để chụp. Khi cả nhóm hoàn thành xong căn phòng và nhân vật, họ sẽ đưa nó vào phòng thu và bắt đầu lấy ảnh. Vì thế, cả bộ phim kéo dài từ tháng 7-12/2012. Nguồn: facebook.com/HeadOverHeelsFilm Dưới đây là hai đoạn clip được phía đoàn làm phim Head over Heels cung cấp sẽ giúp các bạn học viên cùng bạn đọc hiểu thêm về quá trình thực hiện bộ phim đáng yêu này. HOH Timelapse: Animating a shot HOH Timelapse: Breaking down and setting up Phạm Hoàng Ngọc dịch và tổng hợp

Fresh Guacamole Phim hoạt hình ngắn nhất được đề cử Oscar 4

Poster phim. Nguồn: pesfilm.com Fresh Guacamole là bộ phim hoạt hình ngắn năm 2012 do PES (tên thật là Adam Pesapane) làm đạo diễn kiêm biên kịch, sản xuất bởi PES Productions và Showtime hợp tác cùng ShortsHD phát hành. Ra mắt vào ngày 2/3/2012 tại Mỹ, Fresh Guacamole đã được đề cử giải thưởng Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) của lễ trao giải Oscar lần thứ 85 diễn ra vào năm 2013. Với thời lượng vỏn vẹn 1 phút 40 giây, đây là bộ phim hoạt hình ngắn nhất từng được đề cử cho giải Oscar. Nguồn: pesfilm.com Những bộ phim của PES chủ yếu là theo hình thức 2D và Stop-Motion và luôn là chủ đề về cuộc sống xung quanh con người. Nhưng những sản phẩm do anh làm ra luôn đầy tính sáng tạo đến mức bất ngờ, hài hước, súc tích và suy tư. Điển hình như Fresh Guacamole với nội dung rất gần gũi: Sử dụng các vật dụng kỳ lạ làm món bơ dầm. Trong khi, phần nội dung nghe có vẻ đơn giản nhưng việc PES sử dụng kỹ thuật pixilation để mô tả một người đàn ông làm món bơ dầm từ các thành phần bất thường, mà mỗi khi cắt lại trở thành một thứ khác khiến cho khán giả không khỏi thích thú, bị lôi cuốn với sự sáng tạo độc đáo của PES. Đó là lý do tại sao Fresh Guacamole chỉ cần 4 ngày để đạt 3,5 triệu lượt view trên Youtube và đến nay đã là 54 triệu lượt.  Trong cuộc phỏng vấn với ANIMATIONWorld, PES đã nói về nét riêng trong Fresh Guacamole và các phim khác của anh: “Các phim của tôi không nhất thiết đi theo cảm xúc con người, sự phát triển nhân vật hay diễn biến tâm lý. Mà vẫn dựa trên ý tưởng là chính. Người ta đi xem phim truyện để được dấn thân vào một trải nghiệm, một hành trình, đi theo một nhân vật. Nhưng triết lý riêng của tôi là người ta cũng muốn xem một thứ gì khác ngắn hơn. Người ta có thể cảm thấy đầy lý thú và thỏa mãn từ một thứ ngắn và có thể xem đi xem lại mà vẫn thấy chiều sâu.” Đạo diễn PES. Nguồn: media.salon.com Ngoài ra, anh còn chia sẻ thêm: “Theo quan niệm của tôi, phim ngắn còn mạnh mẽ hơn vì nếu ta có thể làm ra một thứ gì đó mà người khác muốn xem đi xem lại hàng chục lần thì nó đã cho phép ta kết nối. Khán giả thường phản ứng tốt với các dạng phim ngắn vì phim quảng cáo đã thành công 50 năm nay. Não của chúng ta đã bắt nhịp được với lối kể chuyện cô đọng cao độ này.” Theo PES, ý tưởng thực hiện Fresh Guacamole đến bất chợt vào một ngày anh ta đi bộ và ghé vào cửa hàng thực phẩm. Tại đây, PES thấy một đống bơ và tưởng tượng về việc lấy thử một trái và ném nó vào khắp nơi trong cửa hàng. Từ đó, ý tưởng về lựu đạn bơ đã ra đời và được PES sử dụng vào bộ phim này. Tuy nhiên, để có thể khiến bộ phim giống như một câu đố, làm khán giả phải kết nối, xác định đối tượng thông qua các phương tiện khác nhau và mường tượng ra thật không dễ dàng. PES cũng thừa nhận làm các bộ phim về nấu ăn mà sáng tạo ra nguyên liệu một cách “đặc biệt” đôi khi cũng là thử thách lớn. Nguồn: pesfilm.com PES chia sẻ thêm: “Tôi đã từng sử dụng công cụ LunchBox nhưng bây giờ tôi chuyển sang Dragon. Công cụ mới này không phải không có nhiều lỗi phiền phức nhưng nó vẫn mang đến lợi ích cho tôi. Vì vậy, tôi thiết lập công cụ Dragon rồi dùng máy ảnh kỹ thuật số để chụp ảnh tĩnh. Chỉnh sửa trong Final Cut và thiết kế âm thanh trên đó luôn, sau đó tôi kết hợp cả hai vào. Đó chính là cách tôi đã tạo ra bộ phim. Thêm chút chỉnh sửa trên Photoshop và chúng tôi hoàn tất mọi công đoạn.” Comic Media Academy chia sẻ đến bạn đọc và các bạn học viên đoạn phim đầy đủ của Fresh Guacamole được chính PES đăng công khai trên trang PESfilm Tại Youtube. Phạm Hoàng Ngọc dịch và tổng hợp (Bài viết có sử dụng dữ liệu từ Howfilmschool)

Phim hoạt hình Adam and Dog 11

Nguồn: imdb.com Adam and Dog là phim hoạt hình ngắn của đạo diễn Minkyu Lee hợp tác cùng nhóm bạn thân của anh – những người có kinh nghiệm làm phim hoạt hình trong các studio khác nhau, kể cả các hãng lớn như Disney Feature, Dreamworks và Pixar. Trailer Adam and Dog Tác phẩm có độ dài 16 phút ra mắt vào ngày 6/11/2012 tại Mỹ, đã vượt qua hàng trăm bộ phim hoạt hình ngắn khác để trở thành đề cử cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại Lễ trao giải danh giá Oscar năm 2013. Không những vậy, Adam and Dog còn nhận được giải thưởng Best Animated Short Subject tại Annie Awards lần thứ 39. Adam and Dog kể về một chú chó đang lang thang đến Eden thì gặp một sinh vật kỳ lạ tên Adam. Họ đi cùng nhau và dành cả ngày vui chơi ở khu vườn, nhanh chóng trở thành đôi bạn thân không thể tách rời cho đến khi có sinh vật mới xuất hiện, đó chính là Eve. Sau khi Eve tới thì Adam đã bỏ rơi chú chó thân thiết. Nhưng khi cả hai người Adam và Eve vì phạm phải điều cấm và buộc rời khỏi khu vườn Eden, chú chó trung thành vẫn đi theo họ vào cảnh khổ cực. Đạo diễn Minkyu Lee chia sẻ về đứa con của mình: “Bộ phim hoạt hình này do tôi cùng nhóm bạn của mình là Jennifer Hager, James Baxter, Mario Furmanczyk, Austin Madison và Matt Williames thực hiện. Glen Keane cũng giúp chúng tôi khi đã góp ý cũng như tư vấn và làm một số visual development. Đây là một tác phẩm hoàn toàn độc lập mà không có sự tham gia của studio. Chúng tôi rất vui mừng khi mọi người thích nó và chia sẻ với nhau.” Adam and Dog là bộ phim hoạt hình 2D truyền thống và được tô điểm bằng màu sắc trang nhã. Từ đó khiến khán giả phải rung động, ngỡ ngàng trước tài hoa của các họa sĩ tham gia. Đặc biệt, bối cảnh phim hùng vĩ và mang cảm giác bình yên là điểm nổi bật nhất của Adam and Dog. Minkyu Lee cùng ekip đã mất khoảng 3 năm để hoàn thành bộ phim. Trong quãng thời gian đó, anh cũng làm việc cho Disney với các dự án như Winnie the Pooh và Wreck-It Ralph. Minkyu Lee gần như đã vắt kiệt sức cho bộ phim trong nhiều đêm liền và cả những ngày cuối tuần. Cuối cùng, để có thể dành hết tâm trí vào Adam and Dog và tạo ra một tác phẩm hoàn thiện nhất, anh quyết định xin nghỉ phép 4 tháng ở Disney. Ngoài vai trò đạo diễn, Minkyu Lee còn là nhà sản xuất, họa sĩ, biên kịch, nhà thiết kế, lead animator và họa sĩ nền. Hầu hết các bối cảnh trong phim đều được anh thực hiện qua Photoshop. Theo GoldDerby, ý tưởng bộ phim được Minkyu Lee lấy cảm hứng từ một bài viết về nguồn gốc của loài chó trên National Geographic.  Cùng Comic Media Academy ngắm nhìn những mẫu phác thảo từ Adam and Dog do Minkyu Lee thực hiện dưới đây: Phác thảo nhân vật Adam và chú chó. Nguồn: blackwingdiaries.blogspot.com Các bối cảnh trong phim. Nguồn: cartoonbrew.com Ngoài ra Comic Media Academy gửi đến bạn đọc và các bạn học viên hai clip hậu trường từ  bộ phim Adam and Dog. Adam and Dog (2011) Pencil Test by James Baxter Adam and Dog (2011) Pencil Test 2 by Jennifer Hager Phạm Hoàng Ngọc dịch và tổng hợp

5 điều cần làm trước khi bắt tay làm phim hoạt hình

Là một người đang học làm phim hoạt hình hay đã hoạt động trong ngành này hoặc, bạn đã từng thử làm luôn một đoạn phim ngay từ đầu mà không cần bất kì kế hoạch nào? Tôi nghĩ nó chắc chắn sẽ kết thúc trong thảm họa nếu bạn làm thế. Khi ta bật ra một ý tưởng mới trong đầu, thì thật khó mà cưỡng lại việc diễn hoạt từng khung một cách vội vàng, để rồi mọi chuyện không đi đến đâu cả vì không thể phát triển thêm được ý tưởng và chúng ta cứ bị đi lòng vòng, vừa tốn thời gian vừa mất công sức vẽ. Để tránh lỗi lầm hết sức phổ biến trên, bạn cần quản lý mọi thứ trong khuôn khổ và tuần theo đúng quy trình, hãy làm theo 5 bước đơn giản sau đây trước khi bạn bắt đầu công vuệc. Chậm rãi, từ tốn lại sẽ không mang lại niềm vui nhiều cho lắm, nhưng điều này sẽ cứu nguy cho dự án của bạn vào phút cuối. Biết rõ câu chuyện mình muốn kể  Nguồn: hollywoodreporter.com Rất nhiều người, đặc biêt là người mới học, thường bị sa đà vào diễn hoạt với chỉ ý tưởng, mà không có câu chuyện đàng hoàng. Bởi vì một câu chuyện là sự phát triển của các ý tưởng/khái niệm, nên bạn cần phải viết ra tất cả mọi thứ để biết mình phải làm gì và nên lên kế hoạch như thế nào . Bạn có thể cần phải thay đổi vài thứ vào phút chót trong câu chuyện khi bạn gặp khó khăn hoặc trở ngại nhưng dàn ý/ bộ khung cơ bản vẫn cần giữ nguyên.  Viết ra một kịch bản hoàn chỉnh với cách dàn xếp sân khấu, chú thích lia camera, thu phóng, góc đặt máy quay…. Càng chi tiết càng tốt, vì bạn sẽ cần đến nó về sau. Hiểu rõ nhân vật mình tạo ra Nguồn: awn.com Đừng chỉ phác thảo một bản duy nhất khi tạo hình các nhân vật của mình. Hãy tạo ra thật nhiều model đa dạng, đừng chỉ gói gọn ở chỉnh sửa gương mặt. Vẽ nhân vật của bạn ở góc toàn thân, ở mọi góc độ và biểu đạt mọi hành động/ cảm xúc, ví dụ như những hành động biểu lộ tính cách tiêu biểu của nhân vật, các cung bậc cảm xúc (giận, vui vẻ…), động tác tay khi nhân vật nói chuyện… Đi vào chi tiết cả những thứ nhân vật đeo trên ngón tay, đeo trên tai… hay những chi tiết kì quái trên áo quần của chúng Sau đó hãy tô màu và tả chất liệu cho nhân vật. Tạo ra một bản thiết kế nhân vật (model sheet) hoàn chỉnh với 5 góc nhìn khác nhau. Vẽ luôn cả những thứ sẽ xuất hiện và tương tác với nhân vật trong phim của bạn, như xe, tàu vũ trụ, sung ống… Điều này sẽ giúp bạn rất nhiều ở công đoạn diễn hoạt (animation) vì bạn đã hình dung được thể khối của chúng. Dù chúng ta có thể hình dung rõ nhân vật của chúng ta trông như thế nào trong đầu, nhưng sẽ khó mà thống nhất cái mình nghĩ với cái mình có thể vẽ ra được trên giấy, nên model sheet nhân vật là thứ sẽ hỗ trợ bạn sự đồng bộ đó. Việc tao ra các tờ model sheet giúp bạn chính thức hóa nhân vật của mình, và bạn có thể dùng lại để tham khao cho các dự án sau này. Bạn sẽ rất ngạc nhiên khi thấy model sheet giúp cho bộ phim của bạn thống nhất và quy củ đến thế nào. Không những thế, nó giúp bạn quen với nhân vật và chỉ cần vài nét để vẽ ra chúng, tiết kiệm bớt thời gian và khối lượng công việc. Lên kế hoạch từng phân cảnh  Nguồn: cartoonbrew.com Trừ những đoạn hoạt hình ngắn chỉ có 1 góc camera, bạn sẽ phải quản lý rất nhiều phân cảnh khác nhau trong bộ phim của mình. Hãy đọc kĩ câu chuyện của mình hoặc kịch bản phân cảnh. Đánh dấu chỗ bắt đầu và kết thúc của phân cảnh, sau đó xác định cụ thể các yêu cầu cho từng cảnh đó: Có bao nhiêu nhân vật, bối cảnh là gì, âm thanh, âm nhạc, âm thanh, lời loại…. Tạo ra một storyboard phân định cụ thể các hành động chính, chuyển động camera, hiệu ứng, màu sắc, vân vân. Hãy biến từ ngữ của câu chuyện biến thành hình ảnh có ý tứ rõ ràng. Đây sẽ là khuôn khổ hướng dẫn bạn trong suốt quá trình. Về cơ bản nó là những hướng dẫn trực quan cho bản thân bạn. Canh chỉnh nhịp thời gian (Timing)  Nguồn: alicegearyyear2.wordpress.com Sự điều hòa thời gian cho chuẩn xác là điều cốt lõi trong hoạt hình. Không phải vật thể nào trong phim cũng di chuyển ở cùng một tốc độ, ví dụ như trong cùng một khoảng cách thì hành động đi và chạy sẽ có số lượng khung hình khác nhau. Nếu bạn diễn hoạt một con báo đang phóng đi nhưng lại phân bố một lượng khung hình xen (inbetween)  đều đặng giữa các khung chính (key frame), bạn có thể sẽ khiến cho con báo nhìn như đang nổi lềnh bềnh trên không khí, hoặc đang lao đi với tốc độ chết người. Không chỉ có thế, không phải mọi chuyển động luôn tiếp diễn ở cùng một vận tốc. thỉnh thoảng nhanh hơn và chậm hơn ở các thời điểm khác nhau (ease-in/ ease-out)  Bạn còn phải đối mặt với các ràng buộc về deadline, nên bạn buộc phải tính toán kĩ thời lượng của bộ phim mà bạn muốn, cắt bớt những cảnh không thực sự cần.  Tạo bảng kế hoạch chi tiết cho công việc  Nguồn: shutterstock.com

5 cách cải thiện não phải

Hầu hết chúng ta đều muốn mình trở nên sáng tạo hơn, nhưng hầu hết ta lại thấy mình “không có khiếu” hay khó khăn để sử dụng trí tưởng tương. Đó là vì đa phần khi trưởng thành chúng ta thiên về tư duy logic, vốn là phần công việc của não trái. Còn bán cầu não phải được coi là trung tâm của sự sáng tạo của con người, nơi điều khiển các hoạt động như âm nhạc, nghệ thuật, năng lực cảm thụ không gian và trí tưởng tượng. Bạn có thể kích thích sự sáng tạo và trí tưởng tượng của bạn bằng cách tiến hành những bài tập thể dục cho não phải, nhằm tối đa hóa hiệu suất của bản thân. Bước 1 Tập thiền định. Theo như Marilee Zdenek, tác giả quyền sách “Những trải nghiệm của não phải: Học cách giải phóng óc tưởng tượng”, não phải của bạn hoạt động mạnh hơn khi bạn đang ở trạng thái thư giãn. Bạn có thể dễ dàng tiếp cận các kiến thức về ngồi thiền trên mạng, sách vở hoặc tại các khóa học cụ thể. Bước 2 Học hát hoặc chơi một loại nhạc cụ. Thử nghe một thể loại nhạc mới. Theo nhà tâm lý học Terry Lyles , việc nghe và chơi nhạc là cách rất tốt để kích thích vỏ thính giác của não phải, từ đó làm tăng sức sáng tạo. Bước 3 Tập vẽ dưới bất cứ hình thức nào. Dù cho bạn nghĩ bạn không nghề có năng khiếu, việc phác họa, thậm chí “đồ” lại một bức ảnh cũng có thể khuyến khích phần não phải của bạn trở nên năng động hơn, do não phải cực kì nhảy cảm với hình ảnh. Những hoạt động liên quan đến việc thực hành nhiều với thị giác như hội họa, điêu khắc sẽ thúc đẩy mạnh não phải. Bước 4 Bắt đầu hình thành cho mình một sở thích mang tính sáng tạo như đan lát, may vá, thêu, hay các hoạt động mà bạn buộc phải thật tập trung và toàn tâm toàn ý. Tiếp xúc nhiều với màu sắc, hoa văn cũng như việc đi tìm các ý tưởng để may nêu sẽ truyền cảm hứng cho óc tưởng tượng của bạn. Tập trung vào việc làm ra những sản phẩm thẩm mĩ sẽ khuyến khích nhận thức sáng tạo của não phải. Bước 5 Tập viết hoặc vẽ bằng tay không thuận của mình. Theo quyển sách “Sức mạnh của bàn tay còn lại: Kết nối với sự thông thái của não phải” của Lucia Capacchionne, các bộ phận không thuận trên cơ thể bạn (như tay, chân) thường chi phối đến bán cầu não phải. Kích thích não phải thông qua việc hoạt động bàn tay không thuận của mình trong khi viết, vẽ có thể giúp bạn kết nối với những phần sáng tạo, trực giác và xúc cảm của bản thân. Hãy thử 5 bước này để cải thiện sự sáng tạo của bạn. Chắc chắn điều này sẽ giúp bạn rất nhiều trong quá trình học vẽ truyện tranh hay làm phim hoạt hình đấy. 

Christmas Holiday Animation Contest 2017

Các bạn đã liên tục gây ấn tượng với Christmas Holiday Animation Contest 2017 trong suốt 9 cuộc thi làm phim hoạt hình gần đây với kỹ năng và sự sáng tạo của mình. Và để chào mừng cuộc thi thứ 10 lần này, chúng tôi đã cải tiến cuộc thi đầu tiên với một vài thay đổi về luật thi. Hãy đọc cẩn thận để tránh bị loại nhé! Bộ phim của các bạn vẫn phải đáp ứng tối thiểu 20 giây về thời lượng, và trong đó sử dụng ít nhất 10 giây để phát bài hát Sneaky Snitch của Kevin MacLeod và tuân thủ một vài nguyên tắc dưới đây. Hãy xem đoạn video sau đây khi đọc luật thi, sau đó đăng kí ứng tuyển ở link này: http://www.animationcareerreview.com/contest#enter-contest Các bộ rig 3D miễn phí sẽ được cung cấp phía cuối trang, nhưng chúng tôi hoan nghênh tất cả các phong cách về hoạt hình (Truyền thống, cut out, 3D…). Luật thi: Khá đơn giản và chúng tôi muốn thấy cộng đồng sáng tạo của chúng ta có thể làm được gì: – Phim dự thi phải là phim mới thực hiện. Những tác phẩm cũ sẽ không được nhận – Trong phim phải có hình ảnh ông già Noel hoặc Người tuyết – Không được sử dụng âm thanh thô có sẵn trong bất kì bộ phim nào. Tuy nhiên bạn có thể tự lồng tiếng hoặc dùng các tư liệu âm thanh do mình tạo ra. – Dùng ít nhất 10 giây thời lượng bài hát Sneaky Snitch của Kevin MacLeod (được cung cấp miễn phí) – Bài dự thi phải được post lên Youtube và gửi link tại đây – Tất cả mọi loại hình hoại họa đều được chấp nhận: 2D, 3D, stop motion, Lego, Minecraft,…, nhưng nội dung không được quá phản cảm hoặc dán nhãn R. – Không được sử dụng những chất liệu đã được đăng kí bản quyền (như bộ nhân vật, rig, prop, âm nhạc,…). Các rig 3D miễn phí sẽ được cung cấp cuối bài. – Ở phần credit, phải ghi đủ 3 dòng của giấy phép Creative Commons (2) cho mỗi bài hát của Kevin macLeod bạn sử dụng. Nếu không có, bạn sẽ bị loại. – Ghi nguồn cho tất cả các sản phẩm miễn phí bạn đã sử dụng cho video của mình (rig, art assets…) Tiêu chuẩn chiến thắng: – Khéo léo, chính xác trong việc kết hợp âm thanh với hình ảnh động. – Giá trị giải trí. – Kỹ năng hoạt hình và bao gồm cả những phân cảnh mang tính thử thách cao. Số lượng hay độ dài phim không còn nằm trong tiêu chí chấm điểm. Cuộc thi dành cho tất cả các nghệ sĩ đến từ mọi quốc gia. Giải thưởng sẽ được thanh toán bằng ngân phiếu hoặc qua PayPal. Animation Career Review không sở hữu bản quyền cho bất cứ điều gì trong sản phẩm dự thi (nhạc, hình, nội dung…). Tuy nhiên, khi gửi bài dự thi, bạn phải chấp nhận để chúng tôi sử dụng tác phẩm cho các mục đích quảng cáo trong tương lai. Tất cả các bài dự thi sẽ được trình chiếu công khai trên website của chúng tôi. Bạn có thể nộp nhiều bài thi. Mỗi video chỉ có thể thắng một giải, nhưng một tác giả có thể ẵm nhiều giải nếu các tác phẩm của mình chiến thắng ở các hạng mục khác nhau. Người thắng cuộc sẽ nhận được email thông báo. Bạn không được dùng các mẫu  animation có sẵn (một vài phần mềm thường có chế độ này). Bạn có thể dùng bộ nhân vật và rig sẵn có, nhưng toàn bộ phải được dẫn nguồn. Chúng tôi có quyền loại trừ các video không tuân thủ đúng luật. Toàn bộ bài thi sẽ được xem qua bởi người kiểm duyệt trước khi họ đăng lên gallery. Quy trình này có thể mất khoảng vài ngày nên đừng lo lắng nếu bạn nộp bài rồi nhưng chưa thấy bài của mình được đăng lên nhé. Hạn chót gửi bài dự thi là 9:00 AM (Mốc giờ Eastern Standard) Ngày 1 tháng 12 năm 2017. Giải thưởng: Hạng 1: $1000 Hạng 2: $500 Hạng 3: $200 Một số giải thưởng khác (tiền mặt) có thể có cho một vài hạng mục khuyến khích: Hạng 4, Hạng 5, Tác phẩm hài hước nhất, tác phẩm gây xúc động nhất, tác phẩm công phu nhất, chuyển động thứ cấp tốt nhất (secondary animation), biểu cảm mặt tốt nhất, ý tưởng tốt nhất, nội dung hay nhất, mang tính lễ hội nhất, trình bày tốt nhất. Nhạc nền miễn phí dùng trong sáng tác: Sau đây là 3 dòng CC của bài hát mà bạn cần thêm vào trong mục credit của tác phẩm: Sneaky Snitch Kevin MacLeod (incompetech.com) Licensed under Creative Commons: By Attribution 3.0 License http://creativecommons.org/licenses/by/3.0/ Các bạn cũng được phép sử dụng các bài hát khác hoặc các art assets miễn phí, nhưng vẫn phải dẫn nguồn ở credit. Chúng tôi sẽ không chấp nhận các bài thi ghi dẫn thiếu nguồn. Nếu một tài sản nghệ thuật không được ghi là có thể sử dụng cho mục đích thương mại, thì các bạn không nên dùng nó. Các bộ rig 3D miễn phí: Dưới đây là hai bộ rig bạn được phép sử dụng cho cho bài thi và phải dẫn nguồn. Nếu không tuân thủ bài thi của bạn sẽ bị loại và bị gỡ khỏi gallery. – Morpheus Rig (Cho Autodesk Maya)   – Eleven Rig (Nhiều phiên bản cho Blender, 3ds Max, và Maya)   Những ngày lễ thật hứng khởi, làm hoạt hình cũng đầy niềm vui và tiền cho giải thưởng cũng thật đáng để cố gắng, nên hãy cho chúng tôi thấy khả năng của các bạn đi nào! Chúc vui và chúc may mắn nhé! Follow chúng tôi trên Facebook, Twitter và YouTube để theo dõi thông tin

Poster phim. Nguồn: imdb.com Trailer: Phim hoạt hình Day & Night (Ngày & Đêm) có thời lượng 6 phút do hãng Pixar Animation Studios hợp tác với Walt Disney Pictures sản xuất. Tác phẩm được thực hiện bởi đạo diễn Teddy Newton – kiêm vị trí viết kịch bản – và nhà sản xuất Kevin Reher. Bộ phim được ra mắt tại rạp cùng với Toy Story 3 vào ngày 18 tháng 6 năm 2010. Ngoài ra, Day & Night đã được phát hành qua  iTunes tại Mỹ. Năm 2011, bộ phim đã được đề cử cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải danh giá Oscar, nhưng đã không đủ may mắn để nhận giải thưởng này. Nội dung bộ phim kể về hai con người tượng trưng cho Ngày và Đêm gặp nhau. Đêm là một chàng trai có tính tình tăm tối và nóng nảy còn Ngày thì trái ngược lại, sáng sủa và yêu đời. Ban đầu, cả hai cảm thấy sợ hãi và nghi ngờ lẫn nhau nhưng nhanh chóng họ nhận ra sự khác biệt của bản thân là điều tự nhiên. Ngày và Đêm thích thú và khám phá những phẩm chất độc đáo của nhau rồi nhận ra rằng mỗi người trong họ mở ra một cửa sổ khác biệt để bước vào cùng một thế giới, đó là tình bạn. Và tình bạn sẽ giúp cho cả hai đạt đến một viễn cảnh mới mà cả hai chưa từng biết. Góc quay Camera trong phim. Nguồn: Disney/Pixar Điều đặc biệt ở Day & Night là không giống như hầu hết các sản phẩm hoạt hình ngắn khác của Pixar, bộ phim là sự kết hợp giữa phong cách hoạt hình 2D và kỹ thuật 3D tiên tiến. Theo Don Shank – giữ chức vụ bộ phận thiết kế sản xuất của phim hoạt hình nổi tiếng Up – cho rằng “Tác phẩm này không giống như bất cứ điều gì Pixar đã sản xuất trước đây.” Đây cũng là bộ phim hoạt hình ngắn thứ hai của hãng Pixar được làm dưới dạng hoạt hình 2D, sau bộ phim đầu tiên là Your Friend the Rat. Nguồn: Making of Day & Night Quá trình thực hiện phim hoạt hình Day & Night là tư liệu quý giá cho các bạn yêu thích học vẽ hoặc làm phim hoạt hình. Các phác thảo của cả hai nhân vật đều được vẽ bằng tay, sau đó được quét vào máy tính và được xử lý bằng công nghệ CGI. Trong khi đó, các cảnh bên trong của hai nhân vật được thực hiện bằng công nghệ 3D. Ngoài ra, việc sử dụng kỹ thuật này cho phép các nhân vật 2D diễn xuất trên khung cảnh nền định dạng 3D. Vì thế, trong quá trình làm việc sẽ chia làm hai nhóm khác nhau, bao gồm: một nhóm vẽ tay làm việc trên bàn, một nhóm khác thì làm việc qua máy tính. Cả hai đội đều phải quan sát kỹ lưỡng công việc của đối phương để có thể hợp nhất hai bản vẽ vào phim một cách hài hòa. “Việc thực hiện thật là khó khăn, nhưng tôi thích nó!” – Sandra Karpman (nhân viên ghi hình stereo) chia sẻ về quá trình làm Day & Night. Từ bản vẽ tay đến nhân vật hoàn chỉnh. Nguồn: Making of Day & Night Đạo diễn của Day & Night chia sẻ rằng giọng nói được sử dụng trong phim hoạt hình ngắn này là của Tiến sĩ Wayne Dyer và được lấy từ một bài giảng của ông vào năm 1970. Teddy Newton quyết định lấy lời thoại từ bài thuyết trình của Wayne Dyer để cho người xem thấy rằng một điều bản thân chưa biết có thể chứa đựng một bí mật đẹp đẽ, và không cần phải sợ hãi khi khám phá ra nó. Ý tưởng này đã gây tiếng vang bởi một bài phát biểu tương tự của Albert Einstein: “Điều tuyệt vời nhất chúng ta có thể trải nghiệm là sự bí ẩn.” Cuối cùng, Comic Media Academy chia sẻ đến học viên và các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D & 3D đoạn clip Making of Day & Night. Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp)

Poster phim. Nguồn: online-freebee.ru The Lost Thing là một cuốn sách tranh được viết và minh hoạ bởi Shaun Tan. Tác phẩm đã được chuyển thể thành phim hoạt hình ngắn cùng tên có độ dài 15 phút, được thực hiện bởi hai đạo diễn Shaun Tan và Andrew Ruhemann. The Lost Thing được sản xuất bởi nhà sản xuất Sophie Byrne hợp tác với Passion Pictures, ra mắt vào ngày 3 tháng 6 năm 2010 tại Australia. Bộ phim đã đoạt giải thưởng hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải danh giá Oscar năm 2011. The Lost Thing có bối cảnh diễn ra tại một thế giới mà mọi người luôn tất bật công việc, để rồi những con người đó vô tình đánh rơi những thứ quý giá mà bản thân không hay biết. Cho dù biết mình đánh rơi, con người sống trong thế giới ấy quá bận rộn để đi tìm lại những điều đó. Vô tình, những giá trị thực sự cứ mất dần đi. Tuy nhiên giữa dòng người vô cảm tấp nập, có một chàng thanh niên vẫn hăng say tìm lại những món đồ bị vứt bỏ và truy lùng nguồn gốc của chúng. Một ngày, anh chàng tìm thấy một sinh vật kỳ lạ trên bãi biển, sau đó anh ta quyết định tìm cho sinh vật tội nghiệp ấy một căn nhà trú thân. Đội ngũ làm phim ngoài hai đạo diễn Shaun Tan và Andrew Ruhemann, còn có Tom Bryant – thực hiện mảng CGI và phụ trách sản xuất cùng với biên tập Leo Baker. Tuy bộ phim đã được phát triển trong một vài năm, nhưng đã mất ba năm để hoàn thành trong khoảng thời gian 2007 – 2010. “Bộ phim của chúng tôi mất quá nhiều thời gian để hoàn thành.” – Đạo diễn Shaun Tan chia sẻ. Đạo diễn Shaun Tan Nguồn: education.burnsfilmcenter.org Anh cũng cho biết bản thân đã tham gia khá nhiều trong việc viết kịch bản, thiết kế đồ họa, thiết kế mọi vật trong phim và vẽ tay tất cả các họa tiết – những họa tiết này sẽ được Tom Bryant làm theo định dạng 3D. Shaun Tan cũng đã sản xuất các bản nhạc thô và làm việc với nhà làm phim Leo Baker để hoàn thiện bố cục cảnh và hình ảnh động cũng như giải quyết các vấn đề sẽ xảy ra trong quá trình thực hiện The Lost Thing. “Tôi không được huấn luyện về mặt kỹ thuật, nhưng tôi có thể nghiên cứu trước thông qua các phác thảo bút chì và phấn màu. Tôi thường chụp màn hình làm việc, in ra và vẽ lên trên nó để tìm hiểu xem bản vẽ còn có thể được cải thiện thêm như thế nào.” – Shaun Tan cho biết. Một số hình ảnh quá trình thực hiện tác phẩm cực kỳ hữu ích cho các bạn yêu thích học vẽ và làm phim hoạt hình. Nguồn: acmi.net.au / shauntan.net Bộ phim đã gây ấn tượng cho người xem với nét vẽ khác lạ, đôi lúc kì quái. Những nhân vật trong phim được thiết kế với khuôn mặt chảy dài, đôi mắt vô hồn lúc nào cũng nhìn xuống, miệng họ thì không bao giờ cười – những điều đó tạo ra một xã hội sống vô cảm và không yêu thương. Ngoài con người, những sinh vật khác sống tại đây được cấu tạo từ con vật với máy móc, một ý tưởng kỳ lạ từ nhà thiết kế, đã khiến khán gỉa không khỏi thích thú với sức sáng tạo đặc sắc từ đoàn làm phim. Có thể thấy đội ngũ làm phim đã tạo ra một thành phố trong The Lost Thing mang đầy màu sắc fantasy, có phần siêu thực. Comic Media Academy chia sẻ đến học viên và các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D & 3D hai đoạn clip phỏng vấn đạo diễn Shaun Tan về tác phẩm The Lost Thing. Shaun Tan draws The Lost Thing Shaun Tan: Tell us about ‘The Lost Thing’   Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp)

Poster-phim-hoat-hinh-The-Gruffalo

Poster phim The Gruffalo. Nguồn: imdb.com Trailer: The Gruffalo là phim hoạt hình ngắn hợp tác giữa Anh và Đức, được thực hiện bởi đạo diễn Jakob Schuh và Max Lang. Bộ phim được sản xuất bởi Michael Rose và Martin Pope của Magic Light Pictures kết hợp với Studio Soi. Kịch bản được dựa trên cuốn sách ảnh do Julia Donaldson viết và minh họa bởi Axel Scheffler. The Gruffalo với thời lượng 27 phút được ra mắt vào ngày 25 tháng 12 năm 2009 tại Anh. Vào ngày ra mắt bộ phim, đã có 9,8 triệu người xem tại Anh qua kênh BBC One. Sau đó, The Gruffalo  đã được chiếu ở các rạp ở Mỹ, do Kidtoon Films phân phối. Vào tháng 12 năm 2012, bộ phim và phần tiếp theo có tên là The Gruffalo’s Child và ra mắt trên truyền hình PBS Kids Sprout tại Hoa Kỳ. Năm 2011, The Gruffalo đã có tên trong danh sách năm ứng cử viên sáng giá cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) nhưng rất tiếc rằng bộ phim đã không đủ may mắn để nhận được giải thưởng này. Phim hoạt hình The Gruffalo có nội dung kể về một chú chuột nhỏ vì bị đe dọa bởi con rắn nham hiểm, một con cáo tinh ranh và con cú hung ác nên đã tuyên bố phét rằng cậu có một người bạn tên Gruffalo rất đáng sợ, có thể đánh bại được ba người kia. Mặc dù, chú biết người bạn của mình không hề tồn tại nhưng vì quá sợ hãi nên đành phải nói dối. Vậy liệu xem, chú chuột nhỏ này sẽ làm cách nào để có thể chứng minh sự tồn tại không hề có thật với ba kẻ nguy hiểm vẫn đang rình rập. Bộ phim được làm với công nghệ CGI tiên tiến kết hợp với nghê thuật làm phim Stop-Motion đang được rất nhiều đội ngũ làm phim yêu thích. Đạo diễn Jakob Schuh cho biết, anh chọn công nghệ CGI thay vì hoạt hình 2D vì mong muốn bộ phim không trở thành một sản phẩm mang hình ảnh động từ cuốn sách. Điều đó khiến anh không thỏa mãn và Jakob Schuh mong muốn mang đến cho người xem nhiều thứ hơn nữa. Vì vậy, hoạt hình 3D là phương án tốt nhất. Ban đầu, đạo diễn Jakob Schuh không tính áp dụng stop-motion vào The Gruffalo vì đoàn làm phim có ngân sách giới hạn và khung thời gian làm việc hạn chế, ngoài ra việc chỉ đạo trong CGI dễ dàng hơn nhiều. Nhưng sau thời gian xem xét, anh quyết định gộp thử cả hai CG và stop-motion cùng vào, cả đoàn đã làm một bài kiểm tra nhỏ và nhận ra phương án này là một cách tinh tế để làm tác phẩm The Gruffalo. Một số hình ảnh quá trình thực hiện tác phẩm.  Các bạn yêu thích học vẽ và làm phim có thể tham khảo. Nguồn: awn.com Ngoài ra, đạo diễn chia sẻ rằng lúc đầu cả đoàn đã nghĩ sẽ không cần máy quét 3D cho các cảnh phim, nhưng những phân cảnh được dựng lên quá lớn, lên đến 16,4 feet (khoảng 5m). Do đó máy quét 3D đã được dùng để có được hình ảnh hình học của sàn nhà chính xác, giúp cho đội ngũ có thể đổ bóng trong phim hợp lý hơn. Trong quá trình sản xuất, Jakob Schuh rất hài lòng với nhân viên trong đoàn của mình, anh đã tâm sự vài điều về nghệ sĩ hoạt hình Max Stohr trong bài phỏng vấn với trang ANIMATIONWorld như sau: “Nghệ sĩ hoạt hình Max Stohr, đã làm việc với chúng tôi năm 2007 và đoàn chúng tôi giao trách nhiệm làm sạch các cảnh hoạt họa cho anh ta, tôi thật sự yêu thích cách thức làm việc của anh chàng này. Max Stohr là một nghệ sĩ hoạt hình giỏi giang và sau đó anh ta đã giới thiệu người bạn thân của mình cho chúng tôi, cậu ta tên Toby von Burkersroda. Họ đã trở thành những nhà làm phim hoạt hình hàng đầu trong chương trình. Nhiệm vụ của cả hai về cơ bản là thiết lập tiêu chuẩn cho bộ phim của tôi.” Cuối cùng, Comic Media Academy chia sẻ đến học viên và các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D & 3D hai đoạn phim về quá trình thực hiện The Gruffalo của đoàn làm phim. Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp)

Poster của phim. Nguồn: akatasia.com Trailer: Madagascar, a Journey Diary (có tựa tiếng Pháp là Madagascar, carnet de voyage) là tác phẩm của đạo diễn Bastien Dubois, anh cũng là người viết ra kịch bản cho đứa con của mình. Bộ phim có thời lượng 11 phút được sản xuất bởi Ron Dyens, Aurélia Prévieu và công ty Sacrebleu Productions. Phim hoạt hình Madagascar, a Journey Diary ra mắt ngày 11 tháng 2 năm 2011 tại Hoa Kỳ và được đánh giá cao bởi các chuyên gia trong ngành. Năm 2011 tại lễ trao giải Oscar lần thứ 83, Madagascar, a Journey Diary đã có tên trong danh sách năm ứng cử viên sáng giá cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) nhưng chưa đủ may mắn để nhận được giải thưởng này. Nội dung của Madagascar, a Journey Diary nói về Famadihana – đây là phong tục tang lễ cổ xưa của người dân Malagasy, có ý ngĩa “Sự biến chuyển của người chết”. Một biểu tượng về tầm quan trọng của việc thờ cúng tổ tiên, cũng là cơ hội để di chuyển hài cốt của tổ tiên từ ngôi mộ đầu tiên đến nơi yên nghỉ cuối cùng. Bộ phim được quay như chuyến du lịch của một du khách phương Tây với mong muốn tìm hiểu những phong tục tập quán tại Madagascar. Ý tưởng này được dựa theo những kỷ niệm mười tháng Bastien Dubois sinh sống tại Madagascar vào năm 2006, nhằm tìm kiếm nguồn tài liệu cũng như ý tưởng hình ảnh cho tác phẩm. Thiết kế nhân vật. Nguồn: cartoonbrew.com Hoạt hình ngắn Madagascar, a Journey Diary đã được đạo diễn Bastien Dubois hoàn thành cùng với sự trợ giúp của ba người khác trong vòng hai tháng. Bastien Dubois  cho biết, thay vì viết một kịch bản hoàn chỉnh hoặc vẽ một vài bảng phân cảnh, anh đã bắt đầu bằng việc vẽ ba bức tranh khác nhau và ghi chú cho những nhân vật đó một vài dòng tư liệu về thời gian, kèm theo một số đoạn nhạc được viết phía dưới. Điều đó đã trở thành nền tảng cho bộ phim của Bastien Dubois. “Mỗi khi đi qua Madagascar, tôi trở về căn nhà của tôi ở đây để thêm thắt một vài bức tranh thêm sinh động, dựa theo những kinh nghiệm mới của tôi và dùng nó để cập nhật chỉnh sửa cho bộ phim.Từ từ, tác phẩm được xây dựng dựa theo xung quanh ba bức tranh ban đầu.” – Đạo diễn Bastien Dubois chia sẻ. Lúc đầu, Bastien Dubois tính thực hiện dự án này bằng phong cách 2D nhưng sau một thời gian, anh nhận ra rằng không thể đạt được hiệu quả tốt hơn nếu không dùng CGI. Cuối cùng, Bastien Dubois  quyết định làm Madagascar, a Journey Diary theo kỹ thuật CGI tiên tiến. Ngoài ra, bộ phim này là một thử thách lớn đối với đạo diễn Bastien Dubois về việc chuyển đổi kỹ thuật sản xuất độc đáo và sắp xếp nguồn lao động trong đoàn làm phim hợp lý nhằm thúc đẩy quá trình sản xuất nhanh hơn. Tất nhiên, trong quá trình làm phim cũng xảy ra một vài thử thách, nhất là về tiền bạc. “Tìm kiếm nguồn tài trợ để làm Madagascar là một quá trình dài đầy khó khăn. Nếu không có sự hỗ trợ của câu lạc bộ Rotary, khoản viện trợ 2000 euro cho bộ phim mà họ cho tôi sau vài tuần khi tôi gửi e-mail cho họ, có lẽ tôi đã từ bỏ dự án này. Một khoản trợ cấp nhỏ có thể tạo sự khác biệt đáng kinh ngạc cho một người sáng tạo trẻ tuổi.” – Đạo diễn Bastien Dubois cho biết. Một vài hình ảnh quá trình thực hiện mà các bạn yêu thích học vẽ và làm phim sẽ quan tâm. Nguồn: bastiendubois.com Thành công của phim hoạt hình Madagascar, a Journey Diary đã dẫn đến việc đạo diễn Bastien Dubois thực hiện thêm bộ phim ngắn thứ hai có tên Cargo Cult và một loạt phim truyền hình ngắn khác. Cuối cùng, Comic Media Academy chia sẻ đến học viên và các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D & 3D đoạn phim Making of “Madagascar, a Journey Diary”. Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp)

Nguồn: imdb.com The Longest Daycare với thời lượng 5 phút là một sản phẩm theo định dạng 3D dựa theo chương trình truyền hình hài kịch tình huống hoạt họa nổi tiếng của Hoa Kỳ – The Simpsons (một trong những chương trình được chiếu lâu nhất, bắt đầu từ ngày 17 tháng 12 năm 1989 trên hệ thống truyền hình Fox Network cho đến giờ). Bộ phim hoạt hình ngắn này có kịch bản gốc từ nhà sản xuất lâu đời cho The Simpsons, James L.Brooks và đạo diễn thực hiện là David Silverman. Các công ty sản xuất bộ phim bao gồm: Gracie Films, Film Roman và 20th Century Fox Animation. Ngoài ra, bên phía nhà sản xuất ngoài James L. Brooks còn có bốn thành viên khác gồm: Matt Groening, Al Jean, Richard Raynis, Richard Sakai. Đội ngũ biên kịch gồm sáu người: James L. Brooks, Matt Groening, Al Jean, David Mirkin, Michael Price, Joel H. Cohen. The Longest Daycare được chiếu rạp cùng với Ice Age: Continental Drift, ra mắt vào ngày 13 tháng 7 năm 2012. Ngay sau đó, bộ tiếp nhận được những lời khen tích cực, ca ngợi về nội dung và hình ảnh từ các chuyên gia và khán giả khắp mọi nơi. The Longest Daycare đã có tên trong danh sách năm ứng cử viên đề cử cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải Oscar tổ chức năm 2013, tuy nhiên đã để vuột mất vị trí danh giá cho bộ phim Paperman. Nhân vật chính trong The Longest Daycare là Maggie Simpson, cô bé được mẹ ghi danh vào một cơ sở chăm sóc, ở đấy cô bé Maggie quen biết cậu nhóc dữ dằn tên Gerald – có sở thích hành hạ côn trùng. Vô tình, cô nhóc Maggie bắt gặp được một con sâu bướm và tìm mọi cách giúp chú bướm thoát khỏi cánh tay tàn nhẫn của Gerald. Nội dung bộ phim đầy kịch tính, lôi cuốn sẽ khiến bạn không thể dời mắt được trước hành trình rượt đuổi gay cấn giữa Maggie và cậu nhóc Gerald. Nguồn gốc của The Longest Daycare xuất hiện khi nhà sản xuất James L. Brooks của The Simpsons đề xuất ý tưởng làm một bộ phim ngắn và phát hành nó trong các rạp chiếu phim. Ông muốn bộ phim hoạt hình ngắn về cô bé Maggie này như một món quà từ nhà sản xuất cho các khán giả hâm mộ bộ phim The Simpsons. Al Jean chia sẻ bộ phim này như một lời cảm ơn từ đội ngũ đoàn làm phim với những người hâm mộ chương trình trong suốt 25 năm qua. David Silverman chia sẻ lý do ông thực hiện bộ phim này với định dạng 3D vì theo ý kiến đóng góp của Richard Sakai cùng một vài người khác trong tổ sản xuất, họ muốn thử nghiệm 3D lên bộ phim và muốn nhìn xem The Simpson sẽ như thế nào khi được làm 3D? “Không có lý do cụ thể gì cả, đây chỉ là một kiểu thử nghiệm ý tưởng. Chúng tôi đã thử nó và chúng tôi thích thú với điều này và bộ phim trở nên mới mẻ hơn.” Đạo diễn David Silverman Nguồn: awn.com Đạo diễn cũng chia sẻ thêm về quá trình sản xuất The Longest Daycare: “Giai đoạn sản xuất bộ phim là từ tháng 3 đến tháng 5. Tuy tôi không có có một đội ngũ khổng lồ nhưng có những anh em rất nhiều kinh nghiệm. Điều quan trọng nhất là tôi có một đội ngũ chuyên nghiên cứu về 3D, nhóm đó do Eric Kurland đứng đầu, người đã thực hiện khá nhiều dự án về 3D.” Ông cũng nói rằng không thay đổi hình ảnh mà vẫn giữa nguyên rồi chia ra các bộ phận tách biệt tại phòng thu ở Hàn Quốc. Tùy theo mỗi cảnh mà họ ghép các bộ phận cơ thể cho phù hợp. “Eric nói việc đó đó không cần thiết. Chúng ta có thể thao tác trong After Effects nếu chúng ta muốn tách cụ thể hơn nữa.” – Đạo diễn David Silverman chia sẻ thêm “Tôi đang rất e ngại về thời gian sản xuất của chúng tôi bởi vì bộ phim đã được thực hiện khá nhanh và tôi không muốn mọi người nghĩ rằng, “Ồ, chúng ta chỉ cần loại ra nó” Chúng tôi không muốn nghe thấy điều đó.” Đối với các bạn học viên đang theo học vẽ truyện tranh hay học làm phim hoạt hình, The Simpsons và The Longest Daycare là một trong những tác phẩm hấp dẫn để tìm hiểu thêm về tạo hình, Art-style và cách kể chuyện.   Nguồn: awn.com Comic Media Academy chia sẻ đến học viên các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D & 3D đoạn phim The Longest Daycare đầy đủ được đăng trên Animation on FOX tại Youtube. Xem thêm: Phỏng vấn David Silverman ‘The Simpsons’ về ‘The Longest Daycare’ http://www.hollywoodreporter.com/race/david-silverman-guiding-simpsons-oscars-422067   Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp)

Poster phim. Nguồn: geefwee.com Trailer   Let’s Pollute là hoạt hình ngắn được tạo ra bởi đạo diễn Geefwee Boedoe và nhà sản xuất Joel Bloom. Ngoài ra, bộ phim có kịch bản được viết bởi ba người, gồm: Geefwee Boedoe, Teddy Newton và Tim Crawfurd. Let’s Pollute với thời lượng gần 7 phút được phát hành vào ngày 11 tháng 2 năm 2011 tại Hoa Kỳ. Sau đó, tác phẩm được đề cử cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải Oscar năm 2011. Let’s Pollute là tác phẩm hoạt hình mà các bạn yêu thích học vẽ truyện tranh hay học làm phim hoạt hình nên tìm hiểu. Tác phẩm theo phong cách giáo dục năm 1950, mang màu sắc châm biếm về thế giới hiện nay, khi mà nơi đâu cũng bị ô nhiễm, người dân thì lãng phí trong tiêu dùng. Mặc dù nền kinh tế thì phát triển mạnh mẽ nhưng con người ngày càng bỏ mặc vấn đề thiên nhiên. Let’s Pollute sẽ hướng dẫn bạn trở thành những người gây ô nhiễm tốt hơn cho một ngày mai tươi sáng. Đạo diễn Geefwee Boedoe Nguồn: polpix.sueddeutsche.com Bộ phim hoạt hình Let’s Pollute đã mất hơn ba năm để đoàn làm phim hoàn thành, nơi thực hiện chủ yếu tại nhà riêng của nhà làm phim Geefwee Boedoe. Anh cho biết rất khó khăn để có được sự ủng hộ từ các hãng studio cho một tác phẩm như Let’s Pollute, bởi vì nội dung của nó thể hiện một khía cạnh chính trị nhạy cảm. Vì thế, Geefwee Boedoe đã tự viết kịch bản, trực tiếp đạo diễn, làm các khâu hoạt hình cũng như sản xuất bộ phim với sự giúp đỡ từ Tim Crawfurd. Ngoài ra, anh đã nhận được sự hợp tác với một nhóm nhỏ các tình nguyện viên, bao gồm biên tập viên Torbin Bullock, nhà thiết kế âm thanh Chris Barnett của Skywalker Sound và đồng sản xuất Joel Bloom để hoàn thành dự án. Nguồn: geefwee.com Để tác phẩm phù hợp với phong cách năm 1950, đoàn làm phim đã làm đồ họa hoạt hình linh động và rõ ràng, các họa tiết màu sẫm được sử dụng trong phim để làm nhấn mạnh chủ đề ô nhiễm. Mặc dù đạo diễn Geefwee Boedoe đã cho ra mắt những bộ phim CGI của mình trong suốt bảy năm tại Pixar Animation Studios, nhưng đến khi thực hiện Let’s Pollute, anh đã chọn một chiếc bút chì đen cổ điển cho phần lớn công việc thiết kế tại đây. Geefwee Boedoe đã vẽ các ý tưởng ra giấy và sử dụng chủ yếu mực Ấn Độ để tạo ra các kết cấu trên tấm nhựa – những hiệu ứng trong phim là từ đây mà ra, không phải là các hiệu ứng tổng hợp trên máy tính. Sau khi phác thảo lên giấy, Geefwee Boedoe quét chúng và các tác phẩm nghệ thuật vào máy tính để chỉnh sửa. Ngoài ra, anh đã sử dụng màu nước và các mẫu vải, tô điểm thêm các hình vẽ bằng tay để tạo ra bối cảnh trong Let’s Pollute. Qua cuộc phỏng vấn điện thoại với trang Wired.com, Geefwee Boedoe đã chia sẻ rằng: “Nếu bạn lạm dụng vào các thủ thuật máy tính quá nhiều, bạn sẽ cảm thấy như ‘Ôi, tôi đã từng xem bộ phim này trước đó thì phải?’ ” Cuối cùng, Comic Media Academy đến học viên và các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D & 3D đoạn phỏng vấn đạo diễn Geefwee Boedoe về bộ phim Let’s Pollute. Let’s Pollute animation director Geefwee Boedoe!   Phạm Hoàng Ngọc (dich và tổng hợp)

poster-phim-hoat-hinh-paperman

Poster phim. Nguồn: artofdisney.canalblog.com Trailer Paperman: Paperman là bộ phim hoạt hình ngắn hài hước, lãng mạn, được thực hiện bởi đạo diễn John Kahrs cùng hai biên kịch gồm Clio Chiang, Kendelle Hoyer.  Walt Disney Animation Studios là studio sản xuất bộ phim dưới sự cho phép của nhà sản xuất Kristina Reed và nó được phát hành tại rạp ở Mỹ vào ngày 2 tháng 11 năm 2012 cùng với Wreck-It-Ralph. Paperman là sự pha trộn giữa hoạt hình truyền thống và hoạt hình máy tính, chính sự kết hợp ấy đã giúp bộ phim được đánh giá cao và nhận giải thưởng Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải Oscar lần thứ 85, năm 2013. Ngoài ra bộ phim còn đạt giải Best Animated Short Subject tại buổi lễ lần thứ 40 của Annie Awards. Đây là lần đầu tiên sau 43 năm kể từ chiến thắng của It’s Tough to be a Bird, Disney mới lại giành được giải thưởng ở hạng mục này tại Oscar lần nữa. Nội dung của Paperman khởi đầu bằng cảnh ở ga tàu điện vào thời điểm của thập niên 1940 tại thành phố New York, một chàng trai nhân viên văn phòng bất ngờ gặp một cô gái xinh đẹp tại đây và cô khiến anh ta bối rối và quyến luyến. Khi anh chàng chưa kịp bắt chuyện làm quen vì còn ngại ngùng thì cô nàng không may đi mất, chỉ để lại một vết son môi vô tình in trên một tờ giấy của chàng như lời tạm biệt. Bộ phim gợi lên những nỗi tiếc nuối từ những cuộc gặp gỡ tình cờ mà bất kỳ ai trong chúng ta đều có thể gặp phải giữa dòng đời để rồi vì sự e ngại mà vuột mất cơ hội. Đạo diễn John Kahrs – một cựu họa sĩ của hãng Pixar và hiện đang là chuyên gia hoạt hình của Disney – chia sẻ cảm hứng để anh thực hiện bộ phim hoạt hình ngắn đầu tay của mình chính là những kỷ niệm của ngày tháng tuổi trẻ khi anh sống cô đơn lẻ loi giữa thành phố New York tấp nập người qua lại. Đạo diễn John Kahrs Nguồn: artofdisney.canalblog.com Paperman với hình ảnh đen trắng đơn giản nhưng vô cùng đẹp đẽ và nên thơ, còn là sự kết hợp thử nghiệm lần đầu tiên giữa kỹ thuật vẽ tranh bằng tay và đồ họa vi tính trong cùng một nhân vật tại studio Disney. Theo các nhân viên khâu hoạt hình nhận xét, kỹ thuật này giúp hình ảnh vừa giữ được vẻ uyển chuyển của 2D truyền thống, vừa có chiều sâu được tạo ra từ các hình khối của công nghệ 3D tiên tiến. Nhà sản xuất Kristina Reed trả lời phỏng vấn cho biết các thành viên tham gia dự án bộ phim đã cùng nhau thảo luận rất nghiêm túc và làm việc chăm chỉ hết sức vất vả. Ngoài ra trong lúc làm Paperman cũng xảy ra trắc trở vì thiếu nhân công, bởi vì đa số các họa sĩ làm việc tại hãng Disney phải tập trung vào các bộ phim dài và dự án lớn. Cho đến khi các dự án lớn đó hoàn thành thì họ mới có thể trợ giúp cho đoàn làm phim thực hiện bộ phim ngắn như Paperman và chỉ có thể giúp trong vòng một đến hai tháng. Đó là một điều vô cùng khó khăn đối với đoàn làm phim lúc bấy giờ nhưng cuối cùng họ đã làm được và nhận được phần thưởng xứng đáng. Để người xem có thể có một cái nhìn thoáng qua về Paperman, Disney đã chia sẻ một vài hình ảnh phác thảo của bộ phim như sau. Các bạn yêu thích học vẽ và học làm phim hoạt hình tham khảo để lấy thêm tư liệu cho học tập và công việc của mình nhé. Phác thảo của Scott Watanabe Nguồn: artofdisney.canalblog.com Phác thảo của Shiyoon Kim Nguồn: artofdisney.canalblog.com Bối cảnh thiết kế bởi Helen Chen Nguồn: artofdisney.canalblog.com Một vài bản phác thảo nhân vật của các họa sĩ khác Nguồn: artofdisney.canalblog.com Hình ảnh trong quá trình làm Paperman Nguồn: artofdisney.canalblog.com Comic Media Academy chia sẻ đến học viên và các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D & 3D đoạn clip Paperman and the Future of 2D Animation để các bạn có thể tham khảo và dễ dàng nhìn thấy quá trình thực hiện Paperman của đoàn làm phim cùng sự nỗ lực của họ trong việc thay đổi hoạt hình lúc bấy giờ. Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp)

phim-hoat-hinh-head-over-heels-7

Nguồn: vimeocdn.com Head over Heels là bộ phim ngắn do đạo diễn người Anh tên Timothy Reckart – kiêm người viết kịch bản phim – thực hiện vào năm 2012. Bộ phim được làm theo dạng stop motion với thời lượng 10 phút được sản xuất bởi Fodhla Cronin O’Reilly, khâu hoạt hình gồm hai người là Timothy Reckart và Sam Turner. National Film and Television School (NFTS) phát hành bộ phim vào ngày 24 tháng 5 năm 2012 tại Pháp. Head over Heels đã giành được giải Annie Award cho hạng mục Best Student film, sau đó đạt được Best European Animated Short tại lễ trao giải Cartoon d’Or. Không dừng tại đó, bộ phim đã có tên trong năm ứng cử viên sáng giá cho vị trí Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải Oscar tổ chức năm 2013. Sau khi được đề cử Oscar, bộ phim được phát hành cùng với mười lăm bộ phim ngắn khác cũng được đề cử tại giải, tại các rạp chiếu phim của ShortsHD. Vào tháng 3 năm 2015, bộ phim đã được đăng trực tuyến đầy đủ tại www.headoverheels.tv Nội dung của Head over Heels đặc biệt rất thú vị và là tư liệu quý các bạn yêu thích học vẽ & học làm phim hoạt hình nên tìm hiểu. Head over Heels kể về đôi vợi chồng già Walter và Madge sau nhiều năm chung sống với nhau, họ đã quyết định tách riêng ra: Người chồng thì ngủ và sinh sống dưới sàn nhà, người vợ thì sống trên trần nhà. Khi Walter cố thuyết phục bạn đời của mình, sự cân bằng của họ đã tan biến. Ý tưởng về bộ phim là một sự đúc kết từ rất nhiều ý tưởng khác của Timothy Reckart, những điều mà anh nghĩ sẽ khiến cho bộ phim trở nên tuyệt vời hơn. Một câu chuyện về hai người nhìn thế giới một cách khác nhau nhưng họ vẫn phải tìm cách để sống với nhau. Đây là một cảm hứng có thể áp dụng cho bất kỳ sự bất đồng ý kiến ​​về chính trị, tôn giáo. Đạo diễn nhận định đây là một phép ẩn dụ tuyệt vời cho điều đó, không chỉ riêng về hôn nhân. Đạo diễn Timothy Reckart cùng đội ngũ làm phim. Nguồn: facebook.com/HeadOverHeelsFilm Đạo diễn Timothy Reckart cũng chia sẻ về quá trình làm phim Head over Heels. Anh kể bước đầu tiên là tập trung vào phác thảo, làm sao để dẫn đến kết thúc một cách rõ ràng, hợp lý. “Sau đó chúng tôi dành phần lớn thời gian tạo bảng phân cảnh và animatic, đây là quá trình rất dài. Tôi nghĩ rằng tầm khoảng bốn tháng để làm xong. Tuy không lâu lắm, nhưng bạn biết đấy, bộ phim này chỉ có mười phút. Chúng tôi đã trải qua một số bản nháp, chỉ cần liên tục rút gọn bớt nội dung, cố gắng làm cho nó càng ngắn càng tốt. Điều khó khăn khác là làm thế nào để kể câu chuyện mà không cần sử dụng bất cứ cuộc đối thoại nào.” Nguồn: facebook.com/HeadOverHeelsFilm Anh cũng tâm sự thêm rằng đã dành 06 tháng cho việc làm hoạt hình, trong đó có năm tháng là bao gồm việc xây dựng bối cảnh và đạo cụ để chụp. Khi cả nhóm hoàn thành xong căn phòng và nhân vật, họ sẽ đưa nó vào phòng thu và bắt đầu lấy ảnh. Vì thế, cả bộ phim kéo dài từ tháng 7 đến tháng 12 năm 2012. Nguồn: facebook.com/HeadOverHeelsFilm Dưới đây là hai đoạn clip được phía đoàn làm phim Head over Heels cung cấp sẽ giúp học viên và các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D & 3D hiểu thêm về quá trình thực hiện bộ phim đáng yêu này. HOH Timelapse: Animating a shot HOH Timelapse: Breaking down and setting up   Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp)  

Fresh-Guacamole-phim-hoat-hinh-ngan-nhat-duoc-de-cu-oscar-3

            Poster phim. Nguồn: pesfilm.com Fresh Guacamole là bộ phim ngắn năm 2012 do PES (tên thật là Adam Pesapane) đạo diễn kiêm viết kịch bản. Phim được sản xuất do PES Productions và phát hành bởi Showtime hợp tác cùng ShortsHD, ra mắt vào ngày 2 tháng 3 năm 2012 tại Mỹ. Bộ phim đã được đề cử giải thưởng Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) của lễ trao giải Oscar lần thứ 85 diễn ra vào năm 2013. Với thời lượng vỏn vẹn 1 phút 40 giây, đây là bộ phim ngắn nhất từng được đề cử cho giải Oscar. Nguồn: pesfilm.com Với thời lượng ngắn như vậy. Các bạn yêu thích học vẽ, học làm phim hoạt hình chắc chắn đã thấy rằng nghệ thuật là không có giới hạn và bất kể ai trong chúng ta cũng có thể trở thành một tác giả có tác phẩm được đề cử. Những bộ phim của PES chủ yếu là theo hình thức 2D và Stop-Motion và luôn là chủ đề về cuộc sống xung quanh con người. Những sản phẩm do anh ta làm ra luôn đầy tính sáng tạo đến mức bất ngờ, hài hước, súc tích và suy tư. Điển hình như Fresh Guacamole có nội dung rất gần gũi: Sử dụng các vật dụng kỳ lạ làm món bơ dầm. Nội dung thì nghe có vẻ đơn giản nhưng cách thức mà PES sử dụng kỹ thuật pixilation để mô tả một người đàn ông làm món bơ dầm từ các thành phần bất thường, mà mỗi khi cắt lại trở thành một thứ khác khiến cho khán giả không khỏi thích thú, bị lôi cuốn với sự sáng tạo độc đáo của PES và không thể dời mắt khỏi bộ phim. Đó là lý do tại sao khi Fresh Guacamole ra mắt lần đầu tiên tại Youtube, chỉ trong bốn ngày đầu công chiếu trên mạng đã có 3,5 triệu lượt xem và nay con số lên đến hơn 54 triệu lượt xem. Trong một cuộc phỏng vấn với ANIMATIONWorld, PES đã nói về nét riêng trong Fresh Guacamole và các phim khác của anh: “Các phim của tôi không nhất thiết đi theo cảm xúc con người, sự phát triển nhân vật hay diễn biến tâm lý. Mà vẫn dựa trên ý tưởng là chính. Người ta đi xem phim truyện để được dấn thân vào một trải nghiệm, một hành trình, đi theo một nhân vật. Nhưng triết lý riêng của tôi là người ta cũng muốn xem một thứ gì khác ngắn hơn. Người ta có thể cảm thấy đầy lý thú và thỏa mãn từ một thứ ngắn và có thể xem đi xem lại mà vẫn thấy chiều sâu.” Đạo diễn PES. Nguồn: media.salon.com Ngoài ra, anh còn chia sẻ thêm: “Theo quan niệm của tôi, phim ngắn còn mạnh mẽ hơn vì nếu ta có thể làm ra một thứ gì đó mà người khác muốn xem đi xem lại hàng chục lần thì nó đã cho phép ta kết nối. Khán giả thường phản ứng tốt với các dạng phim ngắn vì phim quảng cáo đã thành công 50 năm nay. Não của chúng ta đã bắt nhịp được với lối kể chuyện cô đọng cao độ này.” Ý tưởng để PES làm bộ phim Fresh Guacamole theo anh kể thì vào một ngày anh ta đi bộ và ghé vào một cửa hàng thực phẩm mua đồ. PES thấy một đống bơ và tưởng tượng về việc lấy thử một trái và ném nó vào khắp nơi trong cửa hàng. Vì vậy, ý tưởng về lựu đạn bơ đã ra đời và được PES sử dụng vào bộ phim này. Tuy nhiên, để có thể khiến bộ phim giống như một câu đố và khiến khán giả phải kết nối và xác định đối tượng thông qua các phương tiện khác nhau để mường tượng ra thật không dễ dàng. PES cũng thừa nhận làm các bộ phim về nấu ăn mà để nghĩ ra nguyên liệu một cách “đặc biệt” đôi khi cũng là thử thách lớn dành cho anh. Nguồn: pesfilm.com PES chia sẻ thêm về cách mà anh ta làm ra bộ phim như sau: “Tôi đã từng sử dụng công cụ LunchBox nhưng bây giờ tôi chuyển sang Dragon. Công cụ mới này không phải không có những lỗi phiền phức nhưng nó vẫn có nhiều lợi ích cho tôi. Vì vậy, tôi thiết lập lên công cụ Dragon rồi dùng máy ảnh kỹ thuật số để chụp ảnh tĩnh. Chỉnh sửa trong Final Cut và thiết kế âm thanh trên đó luôn, sau đó tôi kết hợp cả hai vào. Đó chính là cách tôi đã làm cho đứa con của mình. Thêm chút chỉnh sửa trên Photoshop và chúng tôi hoàn tất.” Comic Media Academy chia sẻ đến học viên và các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D & 3D đoạn phim đầy đủ của Fresh Guacamole được chính PES đăng công khai trên trang PESfilm Tại Youtube.   Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp) (Bài viết có sử dụng dữ liệu từ Howfilmschool)

phim-hoat-hinh-adam-and-dog-10

Poster phim. Nguồn: imdb.com   Trailer: Adam and Dog là phim hoạt hình ngắn của đạo diễn Minkyu Lee hợp tác cùng nhóm bạn thân của anh – những người có kinh nghiệm làm việc tại các hãng studio khác nhau, trong đó bao gồm các hãng lớn như Disney Feature, Dreamworks và Pixar. Bộ phim với độ dài 16 phút ra mắt vào ngày 6 tháng 11 năm 2012 tại Mỹ, đã vượt qua hàng trăm các phim hoạt hình ngắn khác để có trong tay tấm vé đề cử cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại Lễ trao giải danh giá Oscar năm 2013  và nhận được giải thưởng Best Animated Short Subject tại Annie Awards lần thứ 39. Adam and Dog là một tác phẩm chắc chắn sẽ khiến các bạn yêu thích học vẽ, học làm phim hoạt hình nên tìm hiểu về kịch bản, thiết kế nhân vật và diễn hoạt. Adam and Dog kể về một chú chó đang lang thang đi đến Eden thì một ngày chú ta gặp một sinh vật kỳ lạ tên Adam. Họ đi cùng nhau và dành cả ngày vui chơi ở khu vườn, nhanh chóng trở thành đôi bạn thân không thể tách rời – cho đến khi có sinh vật mới xuất hiện – đó chính là Eve. Sau khi Eve tới thì Adam đã bỏ rơi chú chó thân thiết. Nhưng khi cả hai người Adam và Eve vì phạm phải tội nên phải rời khỏi khu vườn Eden, chú chó trung thành vẫn đi theo họ vào cảnh khổ cực. Đạo diễn Minkyu Lee chia sẻ về đứa con của mình: “Bộ phim hoạt hình này được thực hiện bởi tôi cùng Jennifer Hager, James Baxter, Mario Furmanczyk, Austin Madison và Matt Williames. Glen Keane cũng đã giúp đỡ bằng cách làm tư vấn cho bộ phim, cũng làm một số visual development. Đây là một tác phẩm hoàn toàn độc lập mà không có sự tham gia của studio. Chúng tôi rất vui mừng khi mọi người thích nó và chia sẻ với nhau.” Adam and Dog là bộ phim hoạt hình 2D truyền thống và được tô điểm với màu sắc trang nhã, khiến khán giả phải rung động ngỡ ngàng trước tài hoa của các họa sĩ tham gia, thể hiện rõ nhất là bối cảnh phim rất hùng vĩ và tạo cảm giác bình yên cho người xem – đây cũng là niểm nổi bật của Adam and Dog. Mất khoảng ba năm để Minkyu Lee hoàn thành bộ phim, trong lúc đó anh vừa phải làm việc tại Disney cho các dự án như Winnie the Pooh và Wreck-It Ralph. Minkyu Lee gần như đã vắt kiệt sức bản thân cho bộ phim của anh trong suốt các đêm và các ngày cuối tuần, nhưng để có thể hoàn thiện bộ phim tốt đẹp, anh quyết định xin nghỉ phép bốn tháng ở Disney để có thể dành hết tâm trí vào Adam and Dog. Ngoài ra Minkyu Lee không chỉ là đạo diễn của bộ phim, mà còn là nhà sản xuất, họa sĩ kịch bản, nhà thiết kế, lead animator và họa sĩ nền. Hầu hết các bối cảnh trong phim đều được anh thực hiện qua Photoshop. Đạo diễn Minkyu Lee cũng tâm sự về ý tưởng thực hiện bộ phim với GoldDerby rằng anh lấy cảm hứng từ sau khi đọc bài viết trên National Geographic về nguồn gốc của loài chó. Cùng Comic Media Academy ngắm nhìn những mẫu phác thảo từ đứa con Adam and Dog của Minkyu Lee dưới đây: Phác thảo nhân vật Adam và chú chó Nguồn: blackwingdiaries.blogspot.com Các bối cảnh trong phim Nguồn: cartoonbrew.com Ngoài ra Comic Media Academy chia sẻ đến các bạn học viên cùng các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D hai clip hậu trường từ  bộ phim Adam and Dog. Adam and Dog (2011) Pencil Test by James Baxter Adam and Dog (2011) Pencil Test 2 by Jennifer Hager Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp)

Poster của phim The Damn Keeper. Nguồn: imdb.com The Damn Keeper là bộ phim hoạt hình ngắn với thời lượng 18 phút được sản xuất bởi hai đạo diễn Robert Kondo và Dice Tsutsumi, đồng thời cũng là biên kịch của phim. The Damn Keeper được thực hiện tại Tonko House LLC, được ra mắt chính thức lần đầu tiên tại Liên hoan phim quốc tế Berlin vào ngày 11 tháng 2 năm 2014 và công chiếu tại Mỹ vào ngày 14 tháng 3 cùng năm tại Liên hoan phim trẻ em quốc tế New York. Bộ phim với cốt truyện dễ thương và cảm động đã nhanh chóng làm tan chảy trái tim mỗi người xem và nghiễm nhiên được lọt vào danh sách đề cử Phim hoạt hình ngắn hay nhất của giải thưởng Oscar lần thứ 87, năm 2015. Nội dung của The Damn Keeper chắc chắn sẽ khiến các bạn học làm phim hoạt hình 2D yêu thích bởi sự đáng yêu và sáng tạo của tác phẩm. Phim hoạt hình The Damn Keeper kể về chú lợn con sống cô đơn một mình trong một cối xay gió lớn và có nhiệm vụ bảo vệ thị trân nơi cậu sinh sống khỏi đám sương mù đen nguy hiểm. Ngày qua ngày, cậu luôn phải thức dậy sớm và đúng theo giờ quy định để điều khiển cối xay rồi mới được đi học vì thế người chú heo bé nhỏ lúc nào cũng lấm lem bụi đất. Bạn bè trong trường không ai chơi với cậu, tất cả bọn họ đều tìm cách bắt nạt chú heo nhỏ tội nghiệp cho tới khi cậu gặp bạn cáo – học sinh mới chuyển vào lớp và lúc nào cũng cắm cúi vẽ hí hoáy trong cuốn sổ bí mật. Chú heo con hạnh phúc vì cuối cùng đã có người bạn thân nhưng không may xảy ra sự hiểu nhầm giữa hai người khiến cậu đau đớn vì bị người bạn mới lừa dối. Nỗi đau khổ khiến nhân vật heo con chán nản và bỏ bê luôn công việc quan trọng của mình, làm cho đám sương mù tấn công cả dân làng, khắp nơi đều là tiếng khóc và tiếng la hét sợ hãi. Thật may mắn, heo con nhận ra được mình đã hiểu lầm bạn cáo vì thế cậu đã quyết định dùng hết sức của mình, dũng cảm đi cứu lấy bạn bè cùng thị trấn bằng cách đi đến cối xay gió và thổi đám sương độc ác bay đi. Một câu chuyện nhân văn tươi đẹp, giàu ý nghĩa cùng với hình ảnh nhân vật dễ thương và được tô điểm bằng những màu sắc rực rỡ. Một điều đáng kinh ngạc là bộ phim được làm từ hơn 8.000 bức tranh của các họa sĩ tài năng hợp tác với hai đạo diễn Robert Kondo và Dice Tsutsumi. The Dam Keeper là sự kết hợp với lối vẽ tay truyền thống với những nét cọ màu sắc tươi sáng mang đến cho người xem phong cách hoạt họa đặc trưng điển hình như những tác phẩm trước đây của bộ đôi Kondo và Tsutsumi. (Cả hai người từng là họa sĩ cho các bộ phim hoạt hình nổi tiếng được rất nhiều người biết đến như Ice Age, Ratatouille, Monsters University và Toy Story 3) Ngoài ra bộ phim được thực hiện qua việc dựng những bức tượng nhân vật bằng đất sét để cho ra những thước phim thêm sống động. Dưới đây là một vài hình ảnh được Comic Media Academy sưu tầm từ trang website chính thức của bộ phim: thedamkeeper.com. Các bạn yêu thích học vẽ, học làm phim hoạt hình có thể tìm hiểu thêm. Những ảnh phác thảo ban đầu của nhân vật chính – Chú heo con dũng cảm   Mọi nhân vật đều được nặn bằng đất sét tỉ mỉ Cối xay gió – nơi chú heo con sinh sống và bảo vệ thị trấn Chiếc xe buýt mà chú heo bé nhỏ dùng để đi học Hình ảnh đoàn làm phim The Damn Keeper Trailer chính thức của The Damn Keeper được đăng trên kênh The Dam Keeper tại website Youtube The Dam Keeper: Official Trailer #1 The Dam Keeper: Official Trailer #2 Ngoài ra, trong kênh của Tonko House trên trang Youtube có chia sẻ rất nhiều những đoạn video ngắn về quá trình thực hiện từng khâu trong phim có thể giúp ích rất nhiều cho các bạn học viên tại Comic Media Academy và những bạn có đam mê mãnh liệt trong giới làm phim hoạt hình. Making of The Dam Keeper Short Making Of “PIG: The Dam Keeper Poems” #1– Tonko House’s New Series by Erick Oh   Making Of “PIG: The Dam Keeper Poems” #2 — Tonko House’s New Series by Erick Oh Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp)

Poster phim. Nguồn: filmschoolradio.com Ngoài những bộ phim được thực hiện công phu bằng kỹ thuật làm phim hoạt hình 3D tiên tiến được sản xuất với số lượng nhiều như ngày nay. Chắc hẳn người xem sẽ nhớ nhung về những thước phim hoạt hình được vẽ tay 2D tỉ mỉ ngày xưa đã từng một thời thịnh hành trong giới làm phim hoạt hình. Bộ phim hoạt hình The Bigger Picture chính là một kết hợp táo bạo, hoàn hảo giữa việc vẽ tranh 2D trên tường cùng mô hình giấy để tạo ra những đoạn phim 3D thú vị, ngoài ra điểm đặc biệt của bộ phim là được làm theo dạng hoạt hình tĩnh vật (stop-motion) – một cách làm phim đang khá ưa chuộng hiện nay. Phim hoạt hình The Bigger Picture được sản xuất bởi National Film and Television School (NFTS), dưới sự thực hiện của nữ đạo diễn Daisy Jacobs, cô cũng là biên kịch của bộ phim này cùng với Jennifer Majka. The Bigger Picture được phát hành vào ngày 21 tháng 5 năm 2014 tại Pháp và phát hành tại Mỹ vào ngày 11 tháng 10 năm 2014 tại sự kiện Hamptons International Film Festival. Bộ phim đã chiến thắng giải thưởng Best British Short Animation tại lễ trao giải lần thứ 68 của British Academy Film Awards và lập tức lọt vào vị trí đề cử cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) của giải thưởng Oscar lần thứ 87, năm 2015. Phim hoạt hình The Bigger Picture có độ dài tám phút được đạo diễn Daisy Jacobs sử dụng hình ảnh nhân vật cao hai mét để diễn tả câu chuyện mang hơi hướng hài kịch đen (Dark humor) trào phúng kể về mâu thuẫn gay gắt cùng sự ghen tỵ giữa hai anh em Richard và Nick trong việc chăm sóc người mẹ già yếu sắp mất của họ. Người anh tên Nick thì may mắn và thành đạt, anh ta và luôn được mẹ dành nhiều yêu thương hơn người em dù Nick ít quan tâm đến bà và lâu lâu mới quay về gia đình thăm người thân. Ngược lại hoàn toàn với Nick là người em trai tên Richard – cũng là nhân vật chính của The Bigger Picture. Chính vì sự thương yêu không công bằng của người mẹ dành cho anh mình đã làm dấy lên sự khó chịu trong lòng của Richard. Khi bản thân anh đã dành hết thời gian để chăm sóc cho người mẹ ốm yếu của mình nhưng lại không được bà quan tâm bằng anh trai. Nữ đạo diễn trẻ Daisy Jacobs đã chia sẻ về lý do tại sao cô chọn đề tài nhạy cảm này để thực hiện bộ phim như sau: “Tôi nghĩ The Bigger Picture đã gợi lên điều quan trọng về cách chúng ta chăm sóc cha mẹ của mình khi bản thân chúng ta lớn lên. Theo tôi, mọi người có rất nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này, nhưng tôi nghĩ đây là điều cần phải nói lên thông qua bộ phim.” Nữ đạo diễn Daisy Jacobs và đồng nghiệp Chris Wilder Nguồn: art-vibes.com Bộ phim gây sự thích thú cho người xem qua phương pháp làm phim hoạt hình độc đáo với sự kết hợp tuyệt vời giữa nghệ thuật vẽ tranh 2D ghép với mô hình giấy và 3D (tên tiếng anh gọi là 3D Stop Motion Animation). Dưới đây là một vài hình ảnh được Comic Media Academy sưu tầm sẽ cho chúng ta thấy sự kỳ công của đoàn làm phim khi thực hiện The Bigger Picture.  Quang cảnh khi cả đoàn đang thực hiện bộ phim >>> Có thể bạn quan tâm: Khóa học làm phim hoạt hình 3D chuyên nghiệp Những nhân vật đều được vẽ tay và gắn những mô hình giấy Nguồn: art-vibes.com & animamundi.com.br Với việc kết hợp như vậy sẽ cho ra những thước phim sống động nghệ thuật Nguồn: thisiscolossal.com Comic Media Academy chia sẻ đến các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D và 3D đoạn phim đầy đủ được đoàn làm phim đăng công khai trên kênh Vimeo của đạo diễn Daisy Jacobs cùng với đoạn phim thực hiện The Bigger Picture. The Bigger Picture full movie:   TRIK SHOW: Making Of Daisy Jacobs The Bigger Picture Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp)  

Poster của bộ phim Nguồn: filmaffinity.com Me and My Moulton là phim hoạt hình ngắn dí dỏm và hài hước nhưng đầy sự xúc động của nữ đạo diễn người Canada và Na Uy, cô tên là Torill Kove và kiêm luôn vị trí biên kịch cho bộ phim của mình. Me and My Moulton được sản xuất bởi Mikrofilm hợp tác cùng National Film Board of Canada, phim được ra mắt lần đầu tiên tại sự kiện Toronto International Film Festival vào tháng 9 năm 2014 và ra mắt sau đó tại Na Uy vào ngày 3 tháng 12 cùng năm. Bộ phim có độ dài 14 phút kể về một mùa hè những năm giữa thập niên 60 tại Na Uy. Một bé gái bảy tuổi hỏi cha mẹ rằng liệu cô và hai chị em của mình có thể có một chiếc xe đạp như bao bạn cùng lứa hay không. Me and My Moulton dưới cách nhìn của nhân vật cô bé sẽ cung cấp cho người xem một cái nhìn thoáng qua về những suy nghĩ của nhân vật chính khi cô bé ấy phải vật lộn với suy nghĩ bản thân của mình rằng gia đình của cô không giống như những gia đình bình thường khác. Khi quan sát gia đình người bạn thân rồi so sánh với gia đình khác thường của mình, cô nhận ra rằng cha mẹ của mình vẫn yêu thương các con nhưng đôi lúc họ lại quá vô tâm làm cho cô gái nhỏ với tâm tính nhạy cảm lúc nào cũng lo lắng và bối rối về gia đình. Bộ phim như một cuốn tự truyện hài hước được dựa theo những kí ức của nữ đạo diễn Torill Kove về gia đình của mình khi cô còn nhỏ. Me and My Moulton chia sẻ cảm xúc của nữ đạo diễn Kove khi bé chỉ mong muốn được giống như những người bạn gái khác trong khu phố. Nhưng cha mẹ cô vốn là những kiến trúc sư theo phong cách hiện đại nên họ luôn làm những điều rất khác biệt với mọi người, như việc tổ chức lễ mừng sinh nhật cho cô theo phong cách không giống ai. Khi các chị em Kove cầu xin một chiếc xe đạp, cha mẹ của họ đã làm cả ba người ngạc nhiên với một chiếc xe Moulton xuất xứ từ Anh quốc (loại xe đạp với thiết kế khung hình độc đáo và bánh xe nhỏ xíu). Nữ đạo diễn Torill Kove Nguồn: epkurl.com “Tôi đã có cảm xúc vừa yêu, vừa ghét với chiếc xe đạp đó”, nữ đạo diễn Torill Kove chia sẻ thêm “Tôi nhớ ba chị em tôi đã có những bài tập đi xe tại trường với chiếc xe này nhưng hoàn toàn bất lực! Cả gia đình của tôi đã chia sẻ trong việc sử dụng nó cho đến khi chiếc xe bị mất cắp, điều đó từng khiến tôi cảm thấy rất kỳ lạ, bởi vì ai mà đi ăn cắp một chiếc xe bất thường như vậy chứ?” Bộ phim với màu sắc tươi sáng cùng những kỷ niệm gia đình được diễn tả một cách ấm áp đã vinh dự nhận được vị trí đề cử cho giải thưởng Phim hoạt hình ngắn hay nhất tại lễ trao giải Oscar năm 2015. Trước đó, nữ đạo diễn Torill Kove đã có tác phẩm My Grandmother Ironed the King’s Shirts cũng được đề cử tại hạng mục này tại Oscar năm 2000 và một tác phẩm chiến thắng tại Oscar năm 2007 có tựa là The Danish Poet. Hãy cùng Comic Media Academy ngắm nhìn những tấm hình về các bản vẽ của Me and My Moulton và văn phòng làm việc của đạo diễn Torill Kove tại Mikrofilm. >>> Có thể bạn quan tâm: Khóa học làm phim hoạt hình 3D chuyên nghiệp Nơi làm việc của đạo diễn Torill Kove tại Mikrofilm. Nguồn: mikrofilm.no & filmaffinity.com Gia đình của nhân vật chính Me and My Moulton Nguồn: mikrofilm.no & filmaffinity.com Chiếc xe đạp Moulton của ba chị em Nguồn: mikrofilm.no & filmaffinity.com Comic Media Academy chia sẻ đến các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình 2D và 3D đoạn video của FERNTV phỏng vấn nữ đạo diễn Torill Kove về bộ phim Me and My Moulton tại sự kiện Toronto International Film Festival (TIFF) năm 2014. Ngoài ra, các bạn có thể xem trailer giới thiệu của Me and My Moulton cùng những đoạn phim hoạt hình ngắn khác của nữ đạo diễn tại website dưới đây. http://meandmymoulton.com/ Phạm Hoàng Ngọc (dịch & tổng hợp)

Nguồn: disneyanimation.com Tại lễ trao giải Oscar lần thứ 87 (năm 2015), phim hoạt hình Big Hero 6 của đạo diễn Don Hall, Chris Williams và Roy Conli đã đoạt giải thưởng Phim hoạt hình hay nhất (Best Animated Feature Film) và cũng ngay tại buổi lễ long trọng này, Feast – bộ phim hoạt hình ngắn được sản xuất cùng hãng – Walt Disney Animation Studios – đã vinh dự đoạt vị trí cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film). Hãy cùng Comic Media Academy tìm hiểu về bộ phim hoạt hình ngắn về chú chó đáng yêu của chúng ta. Feast được thực hiện bởi đạo diễn Patrick Osborne cùng biên kịch Raymond S. Persi và Nicole Mitchell. Bộ phim được sản xuất bởi Walt Disney Animation Studios, đã được ra mắt lần đầu tiên vào ngày 10 tháng 6 năm 2014 tại Annecy International Animated Film Festival và phát hành tại rạp chiếu phim cùng với phim hoạt hình Big Hero 6 vào ngày 7 tháng 11 năm 2014 tại Mỹ. Phim hoạt hình ngắn này đã chiến thắng vinh quang tại hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải Oscar lần thứ 87 trước bốn đối thủ nặng kí còn lại. Sau đó Feast tiếp tục ẵm trọn giải thưởng tại 42nd Annie Awards cho vị trí Annie Award for Best Animated Short Subject. Nội dung hoạt hình ngắn Feast kể về một chú chó con giống Boston (tên tiếng anh là Boston Terrier) lang thang giữa đường phố kiếm ăn tại các bãi rác. Thật may mắn, chú chó con ấy được một chàng trai James tốt bụng cưu mang và được đặt tên là Winston. Sau đó, bộ phim xuyên suốt là những bữa ăn mà người chủ chia sẻ cho chú chó con bé bỏng của mình và cuộc sống đơn giản và hạnh phúc của James và Winston. Nhưng ngày qua ngày, anh chàng đã động lòng trước một cô gái tên Kirby đang làm việc tại một nhà hàng địa phương. Cô thuyết phục James ăn kiêng và khuyên anh cần có lối sống lành mạnh hơn, điều đó khiến cho Winston buồn rầu vì bị bắt ăn những loại rau chú không thích thay cho trứng và thịt ba chỉ như trước đây. Không lâu sau đó, James và Kirby chia tay và anh chàng rơi vào trầm cảm, sống buông thả bản thân và không còn chú trọng ăn uống như trước đây nữa. Nhận ra tinh thần khác thường của chủ, chú chó Winston quyết định tìm Kirby bằng việc dựa theo mùi ngò tây mà ngày trước được cô cho ăn và dắt James tới gặp cô gái. Nhờ chú chó bé nhỏ tinh khôn, cả hai đã làm hòa và kết hôn ngay sau đó. Ý tưởng hình thành bộ phim Feast đáng yêu này từ đâu ? Patrick Osborne chia sẻ về ý tưởng cho bộ phim hoạt hình ngắn Feast bắt đầu từ một ứng dụng có tên là 1secondeveryday, ứng dụng này cho phép người dùng ghi lại đoạn phim dài một giây cho mỗi ngày và chế tác những đoạn phim nhỏ đó thành một bộ phim. Osborne đã sử dụng chúng để tạo ra một đoạn phim ăn tối vào năm 2012, nhờ đó ông bật ra suy nghĩ có thể dựa vào ý tưởng này để thực hiện một bộ phim hoạt hình ngắn thú vị. >>> Có thể bạn quan tâm: Khóa học làm phim hoạt hình 3D chuyên nghiệp Đạo diễn Patrick Osborne. Nguồn: wikimedia.org Feast được thực hiện qua hệ thống Meander được phát triển cho phim hoạt hình ngắn Paperman. Ngoài ra, phim còn được sử dụng Hyperion, hệ thống dựng hình được xây dựng cho bộ phim hoạt hình Big Hero 6. Nhân vật và bối cảnh trong phim được vẽ bằng những đường nét tự do, kết hợp với những khối màu sắc rực rỡ. Bộ phim bao gồm những phân cảnh ngắn được ghép lại với nhau và máy quay chủ yếu tập trung vào nhân vật chú chó Winston cùng đồ ăn của chú làm điểm trọng tâm cho câu chuyện. Dưới đây là những hình ảnh mà Comic Media Academy sưu tầm được về quá trinh tạo dựng bộ phim Feast trong đoạn clip Making of Disney Feast. Ảnh phác thảo về chú chó Winston và hai vị chủ nhân Nguồn: cgmeetup.net Ngoài ra, các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình có thể tham khảo thêm hai đoạn phim dưới đây do đoàn làm phim Feast cung cấp, sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về từng khâu thực hiện bộ phim cũng như nghe lời chia sẻ cảm nghĩ của đạo diễn Patrick Osborne. 1. Design Night: Art in motion, talk by Patrick Osborne 2. Making of Disney Feast 3. Trailer của phim Feast Phạm Hoàng Ngọc (dịch và tổng hợp)

Nguồn: imdb.com A Single Life là một phim hoạt hình ngắn của ba đạo diễn đến từ Hà Lan Marieke Blaauw, Joris Oprins và Job Roggeveen. Bộ phim được viết bởi biên kịch Marieke Blaauw và được sản xuất bởi studio hoạt hình Job, Joris & Marieke. A Single Life được ra mắt vào tháng 9 năm 2014 tại Hà Lan và được liệt vào danh sách đề cử cho vị trí Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại Lễ trao giải Oscars năm 2015 (87th Academy Awards). Bộ phim có độ dài ba phút ngắn ngủi kể về một cô gái trẻ tên Pia, người đã nhận được một chiếc đĩa nhạc bí ẩn có thể xoay chuyển thời gian và thứ đó giúp cô có thể đi qua từ thời gian này đến thời gian khác trong cuộc đời của mình. Điều đặc biệt là bộ phim không có bất cứ đoạn đối thoại nào mặc dù xuyên suốt bộ phim vang lên bài hát chủ đề “A Single Life” của Happy Camper với Pien Feith. Marieke Blaauw, Joris Oprins và Job Roggeveen đã sử dụng Cinema 4D và After Effects làm công cụ chính của họ khi làm A Single Life, nhóm ba người đã khéo léo cho người xem thấy Pia từ trẻ hóa sang một phụ nữ lớn tuổi rồi ngược lại. Bộ phim ban đầu được làm ra cho Ultrakort, một dự án của Quỹ điện ảnh tại Hà Lan và Rạp chiếu phim Pathé nhằm quảng bá cho bộ phim hoạt hình ngắn khác, đã thu hút hơn một triệu người ở tại đây và tiếp tục được chiếu tại các liên hoan phim trên toàn thế giới. Phải mất ba tháng để cả ba đạo diễn hoàn thiện bộ phim A Single Life toàn vẹn. Theo lời tâm sự của cả ba người, thử thách lớn nhất của họ khi làm bộ phim này là làm cách nào để chứng minh cho người xem thấy được Pia già đi qua năm giai đoạn của cuộc đời trong một khoảng thời gian rất ngắn. Bởi vì khi Pia thay đổi, vóc dáng người và mái tóc cùng quần áo của cô cũng phải thay đổi theo thời gian. >>> Có thể bạn quan tâm: Khóa học làm phim hoạt hình 3D chuyên nghiệp Bản vẽ phác thảo cho A Single Life. Nguồn: sohosoho.tv Thay vì tạo ra một bảng phân cảnh hoặc động tác chi tiết, nhóm nghiên cứu quyết định ước tính khoảng thời gian của mỗi cảnh và viết mô tả về cảnh quay trên một dòng thời gian được tạo ra trong After Effects. Oprins giải thích: “Dòng thời gian trong After Effects là nơi chúng tôi thêm thắt đoạn phim cho đến khi bộ phim kết thúc.” Nguồn: studiodaily.com “Chúng tôi đã liên tục điều chỉnh các vị trí của máy ảnh và chỉnh sửa trong khi cả ba đang làm các hoạt động cho các cảnh, điều đó giúp công việc hoàn thiện rất tốt bằng cách sử dụng các công cụ thời gian trực quan của Cinema.” Để làm phim trong khung thời gian hiệu quả hơn, nhóm đã sử dụng xRefs (external reference files), ngoài ra còn sử dụng thêm công cụ placeholder. Ba vị đạo diễn Marieke Blaauw, Joris Oprins và Job Roggeveen. Nguồn: sohosoho.tv Oprins chia sẻ thêm: “Điều này hoàn toàn mới mẻ với cả ba chúng tôi và phải mất một khoảng thời gian để làm quen, nhưng chúng tôi thực sự hạnh phúc với kết quả đạt được.” Dưới đây Comic Media Academy xin chia sẻ đến các bạn yêu thích học làm phim hoạt hình đoạn video phỏng vấn Job, Joris & Marieke về ba bộ phim của họ gồm A Single Life, MUTE và [Otto] được đăng trên kênh tạp chí hoạt hình Skwigly tại Youtube. Phạm Hoàng Ngọc (Dịch và Tổng hợp)

Phim hoạt hình ngắn Dimanche 2

Dimanche (tên tiếng anh là Sunday) là bộ phim hoạt hình ngắn của Canada do Patrick Doyon làm đạo diễn kiêm viết kịch bản phim. Nhà sản xuất cho bộ phim gồm hai người là Marc Bertrand và Michael Fukushimara. Dimanche được National Film Board of Canada cho ra mắt tại Liên hoan phim quốc tế Berlin vào 02/2011 và công chiếu trên mạng vào 05/01/2012. Tại buỗi lễ trao giải Oscar 2012, Dimanche có tên trong danh sách 5 ứng cử viên xuất sắc của hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) nhưng thật tiếc vì bộ phim đã không đủ may mắn để nhận được giải thưởng này. Poster bộ phim. Nguồn: animationmagazine.net Dimanche là bộ phim hoạt hình mang tính chuyên nghiệp đầu tiên của đạo diễn trẻ Patrick Doyon, anh là người gốc Montréal. Trước đây Patrick Doyon đã làm ra một bộ phim hoạt hình ngắn dài 3 phút vào năm 2006, trong khi tham gia vào chương trình Hothouse của NFB dành cho những nhà làm phim hoạt hình trẻ tuổi. Ý tưởng của Dimanche được dựa theo những ký ức tuổi thơ của chính đạo diễn: “Bộ phim dựa vào một vài ký ức thời thơ ấu của tôi để thêu dệt nên câu chuyện. Tôi đã thay đổi và phóng đại rất nhiều thứ, vì vậy bộ phim của tôi không còn mang theo lối tự truyện. Ví dụ, trong gia đình tôi, có rất nhiều trẻ em và tôi không bao giờ là đứa trẻ duy nhất có mặt trong ngày hôm đó. Nhưng với mục đích của bộ phim, tôi đã loại bỏ những anh em họ của tôi ra khỏi nội dung”. Đạo diễn Patrick Doyon. Nguồn: spectacularoptical.ca Để thực hiện bộ phim Dimanche, anh đã làm việc với bút chì để vẽ ra các mẫu thiết kế trên giấy, toàn bộ cảnh trong phim đều được chính tay đạo diễn Patrick Doyon vẽ tay toàn bộ. Dimanche có thời lượng 10 phút được anh hoàn thành trong vòng hai năm, từ việc thiết kế các bản vẽ trên giấy rồi đến làm việc trên bàn sáng. Patrick Doyon kết thúc với mười lăm thùng đầy những bản phác thảo của mình, sau đó anh quét qua máy tính và tô màu cùng chỉnh sửa trên Photoshop. Cuối cùng, anh tạo bộ phim qua phần mềm Opus của Toon Boom. Patrick Doyon tin rằng cách thức làm hoạt hình như vậy sẽ giúp Dimanche miêu tả cảm xúc tốt hơn. “Một thách thức khác là phong cách vẽ của tôi – vì tôi thường không hoàn tất những đường nét trên bản vẽ rõ ràng, do đó các đường nét tôi tạo ra không liền mạch với nhau và đó là lý do tại sao quá trình tô màu lại khó khăn đối với tôi, khiến cho thời gian sản xuất bộ phim bị kéo dài thêm” – Đạo diễn Patrick Doyon chia sẻ khó khăn của mình khi thực hiện Dimanche. Nguồn: spectacularoptical.ca Comic Media Academy xin chia sẻ hai đoạn clip Making of Dimanche cho bạn đọc và các bạn học viên học làm phim hoạt hình cùng tham thảo. Có thể các bạn sau khi xem hai đoạn clip này sẽ giúp ích phần nào qua các kinh nghiệm bổ ích từ đạo diễn trẻ Patrick Doyon. Phạm Hoàng Ngọc Dịch và Tổng hợp

Phim hoạt hình ngắn The Fantastic Flying Books of Mr Morris Lessmore 3

The Fantastic Flying Books of Mr. Morris Lessmore là bộ phim hoạt hình ngắn do hai đạo điễn William Joyce và Brandon Oldenburg thực hiện và sản xuất bởi Moonbot Studios. Nhà sản xuất gồm ba người: Lampton Enochs, Alissa Kantrow và Trish Farnsworth-Smith. Ngoài ra, kịch bản được viết bởi đạo diễn William Joyce và phát hành vào ngày 30 tháng 1 năm 2011 tại Santa Barbara, California. Sau khi chiến thắng trong hàng chục liên hoan phim, The Fantastic Flying Books of Mr. Morris Lessmore đã xuất sắc nhận được giải Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại lễ trao giải Oscar lần thứ 84, buổi lễ được tổ chức vào năm 2012. Poster phim. Nguồn: cloudfront.net Bộ phim có thời lượng 15 phút, mở đầu với cơn bão dữ dội đang quét ngang thành phố và tàn phá tất cả mọi nơi, nó cuốn bay đi những quyển sách, mang đi những chữ viết vô giá. Mặc cho Morris Lessmore có cố gắng hết sức đuổi theo bảo vệ quyển sách yêu quý của ông thì cũng vô dụng. Khi cơn bão qua đi, chúng chỉ để lại cho ông những tờ giấy trắng tan nát. Sau đó, Morris Lessmore lang thang vào một thư viện bí ẩn – ở nơi đó ông bắt gặp những điều bất ngờ với những quyển sách sống động kỳ lạ khiến Morris một lần nữa tìm được màu sắc cuộc sống và cảm hứng đặt bút. The Fantastic Flying Books of Mr. Morris Lessmore được lấy cảm hứng từ William Morris – ông làm việc tại một nhà xuất bản sách thiếu nhi tại HarperCollins và cố vấn của Joyce. William Joyce quyết định viết ra một câu chuyện về một người đàn ông đã cống hiến hết cả cuộc đời mình cho những quyển sách khi ông đang trên đường đến thăm Morris. William Joyce đã đọc tác phẩm của mình cho Morris trước khi Morris mất vài ngày sau đó. Không chỉ với nội dung ý nghĩa, bộ phim này cũng không hề kém cạnh về mặt hình thức. The Fantastic Flying Books of Mr. Morris Lessmore được tạo ra bằng cách sử dụng hoạt hình máy tính 3D kết hợp các kỹ thuật vẽ tay 2D truyền thống, cùng với bối cảnh được dựng bằng mô hình và lựa chọn âm nhạc phù hợp. Ngoài ra, hình ảnh nhân vật Morris Lessmore được mô phỏng ngoại hình dựa theo nam diễn viên điện ảnh Buster Keaton. Có một điểm đặc biệt trong bộ phim nữa, đó chính là đoạn mở đầu được lấy ý tưởng từ cảnh bão trong Steamboat Bill của Keaton, Jr cùng cơn bão Katrina đã đổ bộ qua Mĩ năm 2005 và cơn lốc xoáy từ bộ phim nổi tiếng The Wizard of Oz. The Fantastic Flying Books of Mr. Morris Lessmore đã sử dụng sự tương phản của màu sắc và đen trắng. Trong bộ phim, màu đen và trắng tượng trưng cho nỗi buồn và tuyệt vọng do cơn bão gây ra. Ngược lại, màu sắc cho những niềm hạnh phúc của nhân vật chính. Hãy cùng Comic Media Academy ngắm nhìn những bức ảnh về mẫu thiết kế và bối cảnh của The Fantastic Flying Books of Mr. Morris Lessmore. Mẫu thiết kế nhân vật Morris Lessmore và một số phân cảnh được vẽ bằng tay. Nguồn: awn.com Đạo diễn William Joyce và Brandon Oldenburg. Nguồn: awn.com Comic Media Academy xin chia sẻ đoạn clip The making of Morris Lessmore cho bạn đọc và các bạn học viên học làm phim hoạt hình tham khảo. Nếu các bạn là những người yêu thích sách thì đây chính là một bộ phim hoạt hình không thể bỏ qua. The making of Morris Lessmore Phạm Hoàng Ngọc (Dịch và Tổng hợp)

Phim hoạt hình ngắn Wild Life 2

Wild Life là phim hoạt hình ngắn của đạo diễn Wendy Tilby và Amanda Forbis – cả hai người cùng phụ trách viết kịch bản cho đứa con của mình. Nhà sản xuất gồm 4 thành viên: Marcy Page, Bonnie Thompson, David Verrall và David Christensen và được thực hiện tại National Film Board of Canada. Poster phim. Nguồn: imdb.com Wild Life ra mắt tại Liên hoan phim ngắn toàn cầu 2011 tại Toronto, diễn ra vào 06/2011 và được chiếu trực tuyến vào 06/01/2012. Bộ phim đã được đề cử giải Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại buổi lễ trao giải Oscar lần thứ 84, và vị trí Phim ngắn hay nhất tại Giải thưởng Annie lần thứ 39. Với thời lượng 13 phút 30 giây, Wild Life có bối cảnh diễn ra vào năm 1909, một người Anh di chuyển đến biên giới Canada, nhưng tại đây lại xảy ra vài vụ xung đột đẫm máu. Mặc cho cảnh tưởng thực tế đầy thê thảm, nhưng anh vẫn viết những bức thư kể rằng nơi anh đến vẫn tươi sáng và tốt đẹp. Bộ phim sẽ cho người xem thấy được vẻ đẹp của những đồng cỏ, những nỗi nhớ nhà tha thiết và sự điên rồ trong hoàn cảnh sống đầy rình rập hiểm nguy. Đạo diễn Amanda Forbis và Wendy Tilby. Nguồn: cartoonbrew.com Ngoài việc viết kịch bản và chỉ đạo bộ phim, hai nữ đạo diễn Amanda Forbis và Wendy Tilby còn chịu trách nhiệm khâu thiết kế nhân vật và vẽ từng khung hoạt hình bằng màu gouache. Ngoài ra cả hai còn viết bài hát cho phần kết thúc phim. Trong quá trình làm việc, vẫn có nhiều điều trắc trở, như vấn đề thời gian mà cả hai gặp phải. Amanda Forbis và Wendy Tilby chỉ có thể làm việc cho Wild Life vào những lúc cả hai rảnh rỗi. Vì hạn hẹp thời gian nên hai nữ đạo diễn đã hoàn tất tác phẩm của mình trong khoảng thời gian từ 6-7 năm, từ khâu ý tưởng đến khi hoàn tất khâu thực hiện phim. Khi được phóng viên hỏi về cách thức cả hai làm nên bộ phim hoạt hình ngắn này và cách mà họ chỉnh sửa cho nó, Amanda Forbis và Wendy Tilby đã trả lời rằng họ thay đổi tình tiết ngay trên kịch bản và cả khi làm hoạt họa. Như khi thực hiện khâu hoạt hình, cả hai đã thêm thắt và loại trừ một vài yếu tố khi đang làm cho đến khi hai người hoàn tất giây phút cuối cùng của bộ phim Wild Life. “Tất cả cảnh trong bộ phim đều được vẽ bằng tay, nhưng cũng tùy theo cách bạn xác định nó. Chúng tôi đã làm phim hoạt hình này bằng phần mềm Flash, bằng cách vẽ trực tiếp vào máy. Sau đó, cả hai sẽ in ra các bản vẽ và tô điểm lên chúng bằng màu gouache. Cuối cùng, những bức tranh đó sẽ được quét lại vào máy tính và được chúng tôi ghép lại với nhau. ” – Cả hai đạo diễn chia sẻ về cách thức thực hiện Wild Life. “Thực ra, chúng tôi đã hy vọng sẽ làm Wild Life hoàn toàn bằng máy tính vì chúng tôi nghĩ rằng nó sẽ tiết kiệm thời gian cho cả hai. Nhưng rồi điều đó trở thành một thử thách khó khăn”. Nguồn: Wild Life (Making of) Comic Media Academy xin chia sẻ bạn đọc và học viên học làm phim hoạt hình hai đoạn clip về Making of Wild Life và phỏng vấn đạo diễn Wendy Tilby và Amanda Forbis về tác phẩm của họ. Wild Life (Making of) Wild Life – How It Started (Making of) Phạm Hoàng Ngọc Dịch và Tổng hợp

Phim hoạt hình ngắn A Morning Stroll 1

A Morning Stroll là bộ phim hoạt hình ngắn của Anh do đạo diễn Grant Orchard thực hiện. Bộ phim với thời lượng 7 phút được phát hành bởi nhà sản xuất Sue Goffe và StudioAKA, được ra mắt lần đầu vào 10/06 tại Liên hoan phim Brooklyn 2011, đồng thời bộ phim được chiếu tại Liên hoan phim Sundance 2012. Tại nơi này, A Morning Stroll đã đoạt giải thưởng Hoạt hình hay nhất (Best Animation) và Giải thưởng của Ban giám khảo cho hoạt hình ngắn (Jury Prize in Animated Short Film). Poster phim A Morning Stroll. Nguồn: imdb.com Vào năm 2012, A Morning Stroll đã được đề cử vào vị trí Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animated Short Film) tại Giải thưởng Viện Hàn lâm (Oscar) lần thứ 84. Nội dung của A Morning Stroll nói về một người dân sống tại New York vô tình bắt gặp một chú gà đang dạo phố. Bộ phim muốn chúng ta tự hỏi rằng – liệu chú gà trống ấy hay những con người xuất hiện trong đoạn phim, bên nào mới có lối sống thành thị đúng chuẩn? Theo đạo diễn Grant Orchard chia sẻ về ý tưởng để anh thực hiện bộ phim A Morning Stroll, kịch bản được dựa trên một sự kiện trong chương “Chú gà” – trích từ cuốn sách “Những câu chuyện có thật về cuộc sống tại Mỹ” do tác giả Paul Auster sáng tác. Về hình thức, A Morning Stroll là sự kết hợp phong phú và đa dạng giữa hoạt hình đen trắng, hoạt hình màu và kỹ thuật 3D hiện đại. Các nhân vật trong bộ phim được đơn giản hóa và được thiết kế hình chữ nhật, tròn hay tam giác. Trong bộ phim, các bạn sẽ nhận ra có ba mốc thời gian chính và được cách nhau 50 năm, gồm: 1959, 2009 và 2059. Đạo diễn Grant Orchard. Nguồn: cartoonbrew.com Ngoài ra, theo Grant Orchard tâm sự trong bài phỏng vấn của anh trên trang Cartoonbrew, ban đầu anh có ý định thực hiện bộ phim hoạt hình ngắn này trong vòng 3 phút. Nhưng trong quá trình làm thì xảy ra vài vấn đề khiến đạo diễn phải tăng độ dài bộ phim lên 7 phút. Vì vậy, lúc đầu các đối tác tại Studio AKA gồm bốn người: Sue Goffe, Philip Hunt, Marc Craste và Pam Dennis nghĩ rằng A Morning Stroll có thể không có nhiều rủi ro. Nhưng thực tế dự án này vẫn là một nguy cơ vì đoàn làm phim không có nguồn tài trợ từ bên ngoài và phải tìm cách để thực hiện bộ phim một cách hoàn hảo mà không ảnh hưởng đến công việc quảng bá đã được thông qua tại phòng thu. Ngoài ra, những đối tác theo Grant Orchard cho rằng họ đã có những thành công đáng kể với những bộ phim hoạt hình ngắn khác, do đó sẽ rất dễ dàng để những người đó từ chối tiếp tục dự án với anh, vì đây không phải là loại phim mà bất kỳ ai có thể chắc chắn sẽ làm việc tiếp khi biết rằng nó sẽ phải kéo dài quá trình làm phim so với dự đoán. Nhưng cuối cùng, những đối tác tại Studio AKA vẫn đặt niềm tin nơi đạo diễn Grant Orchard, khiến anh cảm thấy rất vui mừng. Hai mẫu thiết kế nhân vật trong A Morning Stroll. Nguồn: cartoonbrew.com Những chia sẻ của Grant Orchard về A Morning Stroll chắc hẳn mang đến nhiều kiến thức thú vị cho các bạn học làm phim hoạt hình. Hy vọng các bạn sẽ tạo ra được những bộ phim hoạt hình giàu cảm xúc và ý nghĩa.  Phạm Hoàng Ngọc Dịch và Tổng hợp 

Phim hoạt hình ngắn Room on the Broom 1

Room on the Broom là bộ phim hoạt hình ngắn được chuyển thể từ sách ảnh thiếu nhi, được thực hiện bởi hai đạo diễn Jan Lachauer và Max Lang cùng đội ngũ biên kịch gồm hai tác giả quyển sách cùng tên là Julia Donaldson và Axel Scheffler. Bộ phim do Martin Pope và Michael Rose của Magic Light Pictures phối hợp với Orange Eye Limited sản xuất, ra mắt ngày 25/12/2012 tại Anh. Sau đó, bộ phim được phát sóng tại Mỹ trên kênh PBS Kids Sprout như một món quà đặc biệt Halloween vào ngày 30/10/2013. Poster của Room on the Broom. Nguồn: imdb.com Năm 2013, Room on the Broom đã nhận được giải thưởng Children’s Awards cho hạng mục Phim hoạt hình. Ngay sau đó, bộ phim được các chuyên gia trong ngành khen tặng “Một tác phẩm của thiên tài”, đã có tên trong danh sách 5 ứng cử viên sáng giá cho hạng mục Phim hoạt hình ngắn hay nhất (Best Animation Short Films) tại lễ trao giải Oscar 2014. Bộ phim dựa theo tác phẩm cùng tên ăn khách của Julia Donaldson và hình ảnh minh họa bởi Axel Scheffler. Room on the Broom có nội dung kể về một phù thủy tử tế đã mời các con vật mà cô gặp trên đường tham gia chuyến hành trình trên cây chổi của cô, tuy nhiên điều đó khiến chú mèo cô nuôi khó chịu. Sau đó, một con rồng gây chiến với nữ phù thủy và các người bạn đi chung đã giúp cô đánh đuổi được nó. Để trả ơn cho sự dũng cảm của họ, vị phù thủy đã tạo ra một cây chổi mới tuyệt đẹp và có nhiều chỗ cho tất cả mọi người. Hai đạo diễn Jan Lachauer và Max Lang tâm đã sự về quá trình làm bộ phim như sau: “Trong khoảng 6 tháng, đội ngũ chúng tôi tập trung vào việc phát triển nội dung của bộ phim và các nhân vật. Trong các nhân vật thì chúng tôi tự hào nhất là cô phù thủy thân thiện, một nhà thám hiểm thích đi đây đi đó khắp mọi nơi và hay giúp đỡ người khác. Trong khi đó thì nhân vật chú mèo có một chút bảo thủ và không muốn chào đón những người bạn khác vào nơi của mình”. Nguồn: cartoonbrew.com Lachauer và Max Lang cũng chia sẻ thách thức lớn nhất là làm ra kịch bản phân cảnh (Storyboard) sao cho hấp dẫn và sinh động. Đoàn làm phim đã dành rất nhiều thời gian để chỉnh sửa cho phù hợp với thời lượng bộ phim hoạt hình ngắn cho phép. Thật may mắn, qúa trình này được giải quyết thành công bởi Waldemar Fast và giám sát hoạt hình Tobias v. Burkersroda, họ là hai người bạn tốt của Jan Lachauer và Max Lang. Nguồn: cartoonbrew.com Dưới đây là Concept Art do Manu Arenas thực hiện cho Room on the Broom. Cả hai vị đạo diễn đều rất hài lòng về khả năng nắm bắt bầu không khí bộ phim nhanh chóng và hoàn hảo của anh ta. Nguồn: cartoonbrew.com Về khâu chọn lựa màu sắc cho bộ phim, cả hai đạo diễn Jan Lachauer và Max Lang đã làm việc với Aurelien Predal. Trong vòng hai tuần, anh đã trình bày bảng màu sắc phù hợp cho bộ phim. Bảng màu này trở thành hướng dẫn cho đội ngũ đoàn làm phim tiếp tục cho phần còn lại trong quá trình sản xuất và có sức ảnh hưởng lớn đến mọi thứ từ thiết kế đến khâu ánh sáng. Nguồn: cartoonbrew.com Bối cảnh trong phim được lấy cảm hứng từ Manu và Aurelien, phần xây dựng bối cảnh được giám sát bởi Klaus Morschheuser và Katja Moll, cả hai người này đã tạo ra thế giới trong Room on the Broom. Bức ảnh dưới đây sẽ cho các bạn thấy họ đã xây dựng một cây linh sam từ cây chồi nhìn chân thật như thế nào. Ngoài ra Room on the Broom còn có đội ngũ 9 thành viên trong khâu hoạt hình rất tài năng khi hoàn thành công việc vừa nhanh vừa hiệu quả. Cả đội làm trung bình một cảnh hoạt hình tầm 12s/tuần cho bộ phim và kết quả rất được cả hai đạo diễn ưng ý. Nguồn: cartoonbrew.com Qua bài viết về bộ phim hoạt hình ngắn Room On The Broom, Comic Media Academy hy vọng các bạn học làm phim hoạt hình đã tích lũy những bài học riêng cho bản thân và có ý tưởng cho tác phẩm hoạt hình của chính mình.  Phạm Hoàng Ngọc Dịch và Tổng Hợp  

Phim hoạt hình Your Name

Với thành tích khủng, oanh tạc phòng vé châu Á, bộ phim hoạt hình bom tấn của đạo diễn Makoto Shinkai đang nhận được sự kì vọng rất cao tại Oscar 2017. >>> Có thể bạn muốn tìm hiểu: Khóa học làm phim hoạt hình 3D Phim hoạt hình Your Name – Cơn sốt phòng vé Châu Á. Nguồn: japantimes.co.jp Hiện tượng phòng vé Nhật của năm 2016, Your Name, do đạo diễn Makoto Shinkai chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của chính ông. Những khán giả yêu thích anime Nhật Bản chắc hẳn không còn xa lạ gì với ông qua các tác phẩm nổi tiếng 5 Centimeters Per Second (2007) và The Garden of Words (2013). Đạo diễn 43 tuổi này đã từng chia sẻ với truyền thông Nhật về ý tưởng của Your Name. Theo đó, bộ phim dựa trên một câu chuyện cổ tích Nhật Bản mang tên Torikaebaya Monogatari. Tác phẩm lấy bổi cảnh triều đình Nhật, với hai nhân vật chính cùng chung huyết thống, nhưng bé trai lại được nuôi dạy như bé gái và ngược lại. Câu chuyện mang nhiều thông điệp về vấn đề giáo dục giới tính trong xã hội Nhật Bản xưa. Your name bắt đầu với câu chuyện hoán đổi thân xác quen thuộc . Nguồn: wall.alphacoders.com Your name bắt đầu bằng câu chuyện đã quá đỗi quen thuộc với những khán giả dòng phim tình cảm châu Á: hoán đổi thân xác giữa hai nhân vật chính là Mitsuha và Taki. Cô nữ sinh trung học vùng nông thôn và cậu nam sinh sống ở trung tâm thành phố Tokyo bất ngờ tỉnh dậy trong thân xác của nhau, từ đó biết bao nhiêu tình huống dở khóc, dở cười xảy ra. Bước ngoặt của bộ phim xuất hiện khi một sao chổi chuẩn bị bay ngang qua Trái đất, đúng lúc Mitsuha và Taki nhận ra tình cảm mà cả hai dành cho nhau. Phim hoạt hình bom tấn Your name (tựa gốc là Kimi no Na wa) chính thức ra rạp tại Nhật vào ngày 26/8, thu được gần 178 triệu USD và chưa có dấu hiệu dừng lại. Tại thị trường Trung Quốc, bom tấn này cũng khẳng định được sức hút của mình khi đem về 71 triệu đô sau hai tuần công chiếu. Với những thành tích đó, bộ phim vươn lên đứng thứ 1 trong bảng xếp hạng điện ảnh ăn khách nhất 2016 và trở thành phim nội địa ăn khách thứ hai mọi thời đại tại Nhật Bản sau bộ phim của đạo diễn Miyazaki Hayao là Spirited Away. Ngay từ khi ra mắt, Your Name đã được giới phê bình đánh giá rất tích cực. Trong số 26 bài phê bình trên Rotten Tomatoes, có đến 96% cho phim 8,3 điểm. Cha đẻ của bộ phim hoạt hình Your Name, Makoto Shinkai, từng được báo chí Nhật Bản ví là “Miyazaki tiếp theo” và được kỳ vọng sẽ nối gót Miyazaki Hayao (nhà sáng lập xưởng hoạt hình nổi tiếng Ghibli Studio) đưa ngành công nghiệp hoạt hình Nhật Bản trở lại và vang danh trên thị trường hoạt hình thế giới. Your name đang được kì vọng sẽ mang về cho Nhật Bản giải Oscar 2017. Nguồn: akmarmohamed.deviantart.com Nhiều ý kiến cho rằng, hạng mục Phim hoạt hình hay nhất của Oscar từ lâu đã là sân chơi của Disney và Pixar khi hai cái tên này liên tiếp thay nhau nhận được tượng vàng Oscar. Trong lịch sử Oscars, chỉ một lần tác phẩm đến từ châu Á được vinh danh và đó chính là tác phẩm hoạt hình Nhật Bản với Spirited Away (2001) của đạo diễn Miyazaki Hayao. Chiến thắng này của Spirited Away đã tạo ra một bất ngờ lớn cho làng hoạt hình thế giới, đưa Ghibli trở thành một cái tên quen thuộc và được nhắc đến bên cạnh các xưởng phim hoạt hình nổi tiếng. Trở lại với Oscars 2017, hoạt hình Nhật Bản với đại diện là Your Name có thể lặp lại được lịch sử mà Spirited away đã làm được? Con đường đến với Oscar thứ hai của hoạt hình Nhật Bản tuy khó khăn, nhưng khán giả yêu thích Your Name hoàn toàn có thể đặt kỳ vọng vào một bất ngờ tại hạng mục Phim hoạt hình hay nhất Oscar 2017. Đề cử chính thức cho top 5 Phim hoạt hình hay nhất Oscar 2017 sẽ được công bố vào ngày 24/01/2017. Minh N 

Trey Parker và Matt Stone

Họ là ai? Randolph Severn “Trey” Parker III sinh ngày 19/10/1969, là một diễn viên, nhà làm phim hoạt hình, nhà sản xuất, biên kịch, ca nhạc sĩ người Mỹ. Ông cũng là đồng sáng tạo South Park với cộng sự của mình là Matt Stone. Ông thích phim, âm nhạc và đã tham gia đại học Colorado, Boulder, nơi đây ông đã gặp Stone. Họ hợp tác qua hai phim ngắn và bắt đầu làm bộ phim nhạc kịch với tựa đề là Cannibal! The Musical vào năm 1992. Matthew Richard “Matt” Stone sinh ngày 26/5/1971 là một diễn viên, nhà làm phim hoạt hình, biên kịch, đạo diễn truyền hình, nhà sản xuất, ca sĩ và nhạc sĩ người Mỹ. Ông là đồng sáng tạo của bộ phim South Park cùng với Trey Parker. Trong suốt thời gian học tập ở Colorado, Parker đã tham gia một lớp học làm phim. Những học viên ở đây sẽ phải hợp tác cùng nhau để làm những dự án. Trong khóa học này, Parker đã gặp Matt Stone. Và ngay lập tức, họ đã quyết định hợp tác cùng nhau. Trey Parker và Matt Stone đã viết và hợp tác với nhau trong nhiều bộ phim ngắn, bao gồm First Date, Man on Mars và Job Application. Parker nói rằng ông và Stone đã có ý định mỗi tuần quay một bộ phim nhưng ông đã làm mất hết dữ liệu. Thành công đầu tiên của họ đến từ bộ phim Alferd Packer: The Musical. Parker đã sử dụng một kỹ thuật hoạt hình giấy để tạo ra American History (1992), một bộ phim ngắn ông làm trong lớp hoạt hình của mình. Sau đó, bộ phim đã trở thành một sự bất ngờ khi mang lại giải thưởng đầu tiên cho Parker – giải Oscars cho sinh viên. Parker nhớ lại cảm giác tự hào khi ngồi trong giảng đường trước những sinh viên đến từ trường hoạt hình nổi tiếng CalArts, nơi đã sản xuất ra những tác phẩm xuất sắc. Trey Parker và Matt Stone đã chuyển tới Los Angeles và cho ra mắt bộ phim South Park ở Comedy Central vào tháng 8/1997. Bộ đôi này có đủ sáng tạo để điều khiển chương trình, sản xuất phim ngắn, âm nhạc và trò chơi dựa trên chương trình. Cùng với nhau họ đã sản xuất khá nhiều phim ngắn và series phim truyền hình, bao gồm Team America: World Police (2004). Sau vài năm phát triển, The Book of Mormon, một sáng tác được viết  bởi Parker và Stone, Robert Lopez soạn nhạc, chiếu trên sân khấu Broadway và thu được thành công lớn. Năm 2013, họ đã thành lập nơi sản xuất riêng của mình với tên gọi Important Studios. Thành quả hợp tác – South Park South Park là phim hoạt hình hài kịch tình huống của Mỹ do Trey Parker và Matt Stone thực hiện. Phim được sản xuất từ năm 1997 và phát sóng trên Comedy Central. Giống như The Simpsons, South Park cũng sử dụng rất nhiều nhân vật. Phim khai thác về cuộc sống của 4 cậu bé: Stan Marsh, Eric Cartman, Kyle Broflovski và Kenny Mccormick. Họ sống ở một thị trấn nhỏ không có thật tên là South Park, nằm ở lòng chảo South Park, dãy núi Rocky, Colorado, Hoa Kỳ. Những địa điểm nổi bật của South Park bao gồm trường tiểu học, điểm dừng xe bus, vài khu lân cận và cảnh miền núi nhiều tuyết, các địa điểm có thực ở Colorado, các cửa hàng quanh phố, tất cả đều dựa theo những địa điểm có thực ở Fairplay, Colorado. Về các nhân vật, trên trang web chính thức của South Park mô tả Stan Marsh là “một học sinh lớp 4 người Mỹ bình thường”. Kyle là người Do Thái duy nhất trong nhóm, và cậu được mô tả một cách châm biếm. Stan đại diện cho Parker, trong khi Kyle đại diện cho Stone. Stan và Kyle là bạn thân, và mối quan hệ của họ, cái mà phản ánh mối quan hệ đời thực giữa Parker và Stone, là một chủ đề quen thuộc của series. Trey Parker và Matt Stone đã xây dựng chương trình từ 2 phim hoạt hình ngắn mà họ đã làm vào năm 1992 và 1995. Cuối cùng trở thành một trong những video đầu tiên trên Internet và sau đó được sản xuất hàng loạt. South Park ra mắt vào tháng 8/1997 với thành công lớn, doanh số thu về cao nhất của các chương trình trên truyền hình cáp. Tuy thứ hạng có thay đổi về sau nhưng South Park vẫn là một trong những chương trình được đánh giá cao của Comedy Central và dự kiến được phát sóng ít nhất đến năm 2019. Các tập thí điểm đều sử dụng hình ảnh động. Tất cả những tập tiếp theo được tạo ra bởi phần mềm… Trey Parker và Matt Stone thực hiện hầu hết các đoạn lồng tiếng. Từ năm 2000, mỗi tập phim thường được viết và sản xuất trong tuần trước khi nó lên sóng. Parker giữ vị trí biên kịch và đạo diễn. Bộ phim đã có 267 tập trong 19 mùa của chương trình. South Park đã nhận được rất nhiều giải thưởng, bao gồm 5 giải Primtime Emmy, 1 giải Peabody và xuất hiện trong rất nhiều danh sách khác nhau. Sự nổi tiếng của chương trình là kết quả cho sự ra đời của bộ phim dài South Park: Bigger, Longer and Uncut, phát hành vào tháng 6/1999, 2 năm sau khi South Park ra mắt. Vào năm 2013, TV Guide đã xếp South Park vào top 10 bộ phim hoạt hình hay nhất của thời đại. Hiền Đặng tổng hợp >>> Tìm hiểu thêm: Friz Freleng – Người làm nên thành công của series Merrie Melodies