takeshi obata

Takeshi Obata sinh ngày 11/02/1969 ở Niigata và là một họa sĩ vẽ truyện tranh Nhật Bản. Takeshi Obata được xem như là một biểu tượng của nền truyện tranh Nhật Bản. Ông được chú ý tới khi đoạt giải Tezuka Award cho oneshot 500 Kounen no Kaiwa. Khi làm nhân viên của Weekly Shounen Jump, ông là trợ lý cho Makoto Niwano trước khi bắt đầu một series của riêng mình – Cyborg Jii-chan G vào năm 1989. Có một khoảng thời gian, ông gặp khó khăn trong việc sáng tác truyện. Ông bắt đầu cộng tác với những người viết kịch bản khác và dựa trên các câu chuyện của họ để sáng tác. Tác phẩm đã nổi lên thành hiện tượng của ông chính là bộ manga nổi tiếng Death Note, được sáng tác cùng với người viết kịch bản Tsugumi Ohba, là bộ truyện kinh dị dành cho người hâm mộ truyện tranh. Bộ manga Hikaru no Go được hợp tác với Hotta Yumi, đã trở nên nổi tiếng và tạo thành trào lưu chơi cờ vây rộng rãi vào năm 1998, bên cạnh đó còn giúp Obata nhận được giải Shogakukan Manga Award năm 2000 và sau đó là giải Osamu Tezuka Cultural Prize vào năm 2003 với bộ manga Death Note… Obata cũng đã minh họa cho một manga khác dựa trên một bộ tiểu thuyết khoa học viễn tưởng về quân sự với tên gọi là All you need is kill được sáng tác bởi Hiroshi Sakurazaka. Tác phẩm này cũng được chuyển thể thành phim điện ảnh với tên gọi Edge of Tomorrow. Một sự hợp tác khác với Tsugumi Ohba chính là tác phẩm Bakuman, là bộ manga đã được tẩu tán lên đến hơn 15 triệu bản. Bakuman là một bộ truyện nói về nghề mangaka (tên gọi họa sĩ truyện tranh Nhật Bản) và những vấn đề xung quanh ngành nghề này. Truyện tập trung vào nhiều khía cạnh khác nhau của ngành xuất bản truyện tranh. Không chỉ đơn thuần về công việc của tác giả mà còn đi sâu vào công việc của những biên tập viên, các nhà hoạch định, những người bán hàng, quảng cáo… nói chung là tất tần tật những gì liên quan để có thể tạo nên một “hit” truyện tranh. Truyện sẽ mở ra cho bạn một thế giới đầy màu sắc về tình yêu, tình bạn và lòng đam mê của một người họa sĩ trong thế giới truyện tranh đầy khắc nghiệt, sự cạnh tranh quyết liệt giữa các họa sĩ truyện tranh và các tình huống hài hước cũng là một điểm cộng của Bakuman khiến độc giả không thể rời mắt khỏi bộ truyện này. Obata sensei là một hoạ sĩ hiếm có trong số những hoạ sĩ vẽ truyện tranh shounen, không chỉ vì sự chi tiết trong tác phẩm, mà còn do thiên hướng về thời trang của ông. Những nhân vật ông vẽ thường ăn mặc rất hợp thời trang và đeo những phụ kiện hợp mốt như khăn choàng, cà vạt hay túi vải. Bên cạnh đó, nét vẽ của Obata có sự hoa mỹ đến tuyệt vời. Với phong cách vẽ manga đậm chất gothic, tương tự đó, khung cảnh gia đình cũng được thể hiện bởi những kỹ năng đáng kinh ngạc, những kẻ rối loạn nhân cách hay những ca sĩ nhạc pop với cuộc sống sôi động. Sự nỗ lực không ngừng của người Họa sĩ Nhật Bản Takeshi Obata khi kể về quá trình hình thành được phong cách của mình đã từng nói: “Tôi đã luôn thích vẽ và nghệ thuật kể từ khi tôi còn là một đứa trẻ. Tôi đã luôn luôn vẽ và vẽ. Đối với tôi, vẽ là một công việc. Và tôi vẽ với tất cả thời gian mà mình có. Có thể hiểu nôm na rằng nó gần giống như cách mà tôi luyện tập hàng ngày vậy. Tôi đã phân bổ cuộc sống của mình sao cho có thể vẽ được nhiều hơn nữa, nhờ đó mà phong cách của tôi đã định hình và phát triển. Ngoài ra còn có những cảm hứng đến từ các tác giả cũng như họa sĩ mà tôi yêu thích, và tôi sáng tác dựa trên những điều mà tôi đã thích từ họ. Đó chính là cách mà tôi đã tạo ra nét riêng của mình” Takeshi Obata luôn không ngừng tìm kiếm nguồn cảm hứng cho bản thân, từ các phương tiện truyền thông như sách, phim ảnh, những bộ manga khác. Hay lấy cảm hứng từ những kịch bản, và nếu nó trùng hợp với ý tưởng của Obata thì sẽ bắt đầu sáng tác từ những ý tưởng ấy. Chính vì vậy các tác phẩm của ông đều rất phong phú như Death Note là thể loại kinh dị, All You Need is Kill là khoa học viễn tưởng về quân sự, Bakuman là về đời sống thường. Và với bất kỳ thể loại nào ông luôn đầu tư về mặt tư liệu rất kỹ càng và chi tiết. Vào năm 2008, Obata được đề cử hạng mục Hoạ sĩ xuất sắc nhất của Eisner Awards với 2 bộ truyện Death Note và Hikaru No Go. Ngoài ra, ông còn tham gia trong lĩnh vực game khi thiết kế mẫu tuyến nhân vật cho game Castlevania Judgement. Đoàn Hạnh tổng hợp >>> Tìm hiểu thêm: Một nửa Ranma và câu chuyện về công chúa manga Rumiko Takahashi 

Rumiko mangaka nổi tiếng của Nhật Bản

Rumiko Takahashi là một trong những họa sĩ vẽ truyện tranh xuất sắc nhất và giàu có nhất Nhật Bản hiện nay. Mặc dù là nữ giới nhưng bà lại chuyên sáng tác manga thể loại shounen chứ không phải shoujo. Bà được độc giả ưu ái đặt cho biệt danh là “Công chúa manga“. Rumiko Takahashi sinh ngày 10/10/1957, chào đời tại Niigata, Nhật Bản. Theo một bài viết, vào thuở nhỏ niềm yêu thích manga của Rumiko không hơn gì so với những đứa trẻ khác, luôn mê mẩn manga và cô cũng hay vẽ manga nguệch ngoạc vào các trang vở của mình nhưng chưa hề nghĩ gì đến việc sẽ trở thành một mangaka chuyên nghiệp. Tuy nhiên trong một bài phỏng vấn năm 2000, chính Takahashi Rumiko lại khẳng định: “Tôi luôn muốn trở thành một họa sĩ truyện tranh chuyên nghiệp, ngay từ khi tôi còn là một đứa con nít.” Rumiko khá kiệm lời, chỉ hay dõi mắt quan sát cuộc sống quanh mình từ dáng vóc, ăn mặc, cử động đến cảm xúc của mọi người… Đó chính là nền tảng cho những series manga chinh phục độc giả sau này. Thời sinh viên bà lấy bút danh là Kemo Kobiru. Con đường sáng tác bắt đầu từ khi bà vào học khoa văn của trường Đại học Nihon Josei (Đại học Phụ nữ Nhật Bản) và tham gia Gekiga Sonjuku, một trường nổi tiếng về manga theo trường phái kịch họa do magaka lừng danh Koike Kazuo sáng lập. Chính nhờ sự hướng dẫn của Koike mà Rumiko đã học được rất nhiều kiến thức quan trọng cũng như nâng cao “tay nghề” của mình lên rất nhiều, đặc biệt là hiểu được tầm quan trọng về tính cách đa dạng của các nhân vật, từ đó hình thành nên phong cách xây dựng nhân vật độc đáo của mình. Và kể từ lúc đó, cô sinh viên Rumiko đã bắt đầu tìm được công việc mà mình thật sự yêu thích. Năm 1976, Rumiko chính thức bước vào con đường của một mangaka chuyên nghiệp, khởi đầu bằng việc xuất bản các truyện ngắn trong tập san của Câu lạc bộ Manga trường Nihon Josei. Các tác phẩm đầu tay của cô lúc đó có thể kể đến như là Thus A Half of Them Are Gone, Bye-Bye Road. Phải nói, sự lựa chọn để trở thành một mangaka chuyên nghiệp của Rumiko là một quyết định hết sức khó khăn. Cô đã gặp không ít trở ngại, từ kinh phí cho đến việc thiếu vắng sự ủng hộ của gia đình. Đồng thời, tính cạnh tranh của công việc này thật sự rất cao, thêm nữa ở Nhật Bản, thất bại trong tìm kiếm việc làm sẽ ảnh hưởng cực lớn đến tương lai. Cụ thể là, nếu Rumiko không tìm được công việc cho mình, chỉ trong vòng vài năm, cô sẽ không còn có cơ hội đó nữa vì khi đó, Rumiko sẽ bị các mangaka trẻ hơn nhưng năng lực không hề kém cạnh qua mặt. Và ở Nhật Bản các sinh viên chưa ra trường thường đăng ký trước công việc của mình với các công ty, vì vậy họ thường không có đủ chỗ cho những người xin việc khác, dù có bằng cấp đi chăng nữa. Hồi tưởng lại thời gian này, Rumiko nói rằng:       “Khả năng thành công là có, nhưng cũng có nhiều khó khăn sẽ đến với bạn. Đúng là ở Nhật Bản thì bạn có nhiều cơ hội thành công hơn, nhưng khi bạn thất bại thì sẽ mất tất cả. Vì vậy bạn phải quyết định và theo đuổi quyết định đó. Trong trường hợp của tôi, thành công không đến ngay mà nó cần thời gian trước khi mọi việc bắt đầu diễn ra trôi chảy. Tất nhiên, cách tốt nhất để tìm ra giải pháp là cứ theo đuổi nó, chờ một vài năm và luôn hy vọng điều tốt đẹp nhất sẽ xảy ra với mình.” Phong cách sống và làm việc của nữ họa sĩ truyện tranh Rumiko Trái với nhiều mangaka khác, Rumiko Takahashi trực tiếp giới thiệu manga và anime của mình tới độc giả phương Tây. Rào cản văn hóa và hình thức tiếp thị kém chính là một trở ngại không nhỏ cho các mangaka. Tuy nhiên, Rumiko đã vượt qua những thử thách đó bằng khá nhiều hoạt động mở rộng và chủ động hợp tác với các nhà sản xuất cả bên trong lẫn bên ngoài Nhật Bản (như Shonen Sunday, TMS Entertainment, Viz Media, Sunrise…). Chỉ sau một thời gian ngắn, manga của Rumiko đã nhanh chóng lên ngôi và chiếm được nhiều cảm tình của độc giả nước ngoài, bằng chứng là Giải thưởng Inkpot tại Hội nghị Truyện tranh San Diego đã trao cho bà vào năm 1994. Trái hẳn với tiếng tăm vang dội của những “đứa con tinh thần”, Rumiko ngoài đời khá lặng lẽ, đơn giản, e dè nhưng thân thiện và rất có sức thu hút. “Công chúa manga” thích xem truyện tranh, sách, kịch Takarazuka, đội bóng chày Hanshin Tigers, nhấm nhi cafe bằng ngón tay út, mì yakisoba, một vật nuôi như P-chan (con heo đen do Hibiki biến thân trong Một nửa Ranma) và được bay! Hâm mộ văn hóa Trung Hoa và Đông Nam Á, du lịch cũng là một sở thích lớn của bà. Tuy nhiên, lịch làm việc căng thẳng không cho phép bà tự do tự tại quá lâu. Về phong cách sáng tác, Rumiko là một trong số ít những mangaka có thể xây dựng mạch truyện với lượng nhân vật cực kỳ đông đảo nhưng luôn đem lại tươi mới và phong phú cho cuốn truyện. Dù là nam hay nữ, hầu hết các nhân vật của Rumiko Takahashi đều có tính cách đa dạng mà đặc trưng, vui nhộn, hấp dẫn, trẻ mãi không già và thiếu hoàn thiện. Họ chưa hẳn là người tốt, nhưng cũng không phải kẻ xấu, mà đơn giản chỉ là những nhân vật rất

họa sĩ truyện tranh Oda

Oda Eiichiro sinh ngày 1/1/1975 ở một vòng đất nằm lọt giữa dải đồng bằng trải dài từ vành đai núi lửa Aso cho đến biển Ariake, thành phố Kumamoto. Ngay từ nhỏ, Oda đã được truyền cảm hứng rất nhiều từ các tác phẩm của họa sĩ Akira Toriyama (điển hình là Dragon Ball) và sau đó quyết định trở thành một họa sĩ vẽ truyện tranh. Rất sớm khi còn đang học tại trường phổ thông trung học cơ sở 2 trực thuộc đại học Toukai, với bút danh Tsukihimizuki Kondo,  Oda đã lần đầu tiên khẳng định được bản thân với tác phẩm Wanted! khi nhận được giải thưởng cây bút mới (giải thưởng Tezuka) của tạp chí Shounen Jump. Khi ông mới 17 tuổi. Oda lên Đại học Toukai, khoa kiến trúc, nhưng bỏ dở giữa chừng khi đang học năm thứ 1 để làm trợ lý cho 3 vị tiền bối là Watsuki Nobuhiro (tác giả bộ manga samurai nổi tiếng Rurouni Kenshin), Kaitani Shinobu và Tokuhiro Masaya. Trong thời gian làm trợ lý, ông đã cho ra đời one-shot Romance Dawn, tiền thân của One Piece. Phần đầu của Romance Dawn đăng trên ấn bản hè 1996 của tờ Shounen Jump. Sau đó, Oda đã đi làm phụ tá vẽ cho rất nhiều họa sĩ nổi tiếng trong ngành trước khi sáng tác riêng One Piece. Và vào tháng 8 năm 1997, ông chính thức tập trung bước vào sáng tác độc lập bộ truyện One Piece. Câu chuyện kể về cuộc phiêu lưu của Monkey D.Luffy – chàng trai trẻ lãnh đạo nhóm hải tặc Mũ Rơm và những người bạn của cậu. Nhóm hải tặc chu du từ đảo này sang đảo khác, chiến đấu với nhiều nhóm hải tặc khác và Hải quân để tìm được kho báu One Piece. Câu chuyện về hải tặc ấy đã nhanh chóng trở thành bộ manga ăn khách nhất Nhật Bản với số lượng bán ra hơn 65 triệu bản (tập 24 đã phá vỡ mọi kỷ lục trước đây với số lượng 2,52 triệu bản ngay trong lần in đầu tiên). Ở Việt Nam, One Piece được NXB Kim Đồng chuyển dịch thành bộ truyện “Đảo hải tặc” từ năm 2002 và trở thành một bộ truyện tranh được bán nhiều nhất trong nhiều năm. Cho đến nay, One Piece vẫn còn gắn bó với độc giả trên khắp thế giới qua những cuốn truyện, những bộ phim truyền hình và nhận được sự hâm mộ cuồng nhiệt của nhiều otaku.  Những khó khăn và thử thách “Thánh” Oda mà chúng ta biết cũng đã có lúc định từ bỏ ước mơ trở thành họa sĩ truyện tranh. Vì mọi cốt truyện ông viết thử đều không được duyệt, không được đăng dài kỳ, nét vẽ thì khô khốc. Tình trạng sức khỏe không được tốt cộng với căng thẳng cũng từng khiến ông đột quỵ và cơ thể bị bất động trong suốt 1 tuần. Nhưng nhờ có sự ủng hộ của bạn đọc, đồng nghiệp, ông lại tiếp tục cầm bút, tiếp tục ước mơ. Eiichiro Oda đã thổi hồn vào từng nhân vật trong One Piece, cho dù có phải dành cả 21 tiếng một ngày liên tục trong 6 tuần, thì ông vẫn muốn đem đến cho độc giả những chương truyện hay nhất của mình, như thế ông gửi gắm cả ước mơ của mình vào đó. Đối diện với áp lực công việc, Oda gần như “sống” tại xưởng vẽ của mình và gia đình của Oda phải thường xuyên tới “thăm” họa sĩ này tại xưởng. Nghĩ rằng với tư cách một họa sĩ truyện tranh chuyên nghiệp, thường xuyên phải ở trong xưởng vẽ và rất ít khi ra ngoài giao lưu. Thế nhưng Oda vẫn kiếm được cô vợ khá xinh đẹp và sống hạnh phúc với nhau suốt 11 năm qua. Ít ai biết được rằng Oda gặp vợ mình, Chiaki Inaba, khi cô đang cosplay Nami ở lễ hội Shonen Jump Fiesta 2002, và sau hai năm hẹn hò họ kết hôn vào năm 2004 và có một con gái vào năm 2006. Với Oda, cho dù bận rộn đến thế nào, mỗi tuần đều phải dành ra nguyên một ngày nghỉ để ở với gia đình mình, bù lại cho những ngày làm việc tới 21 tiếng của ông. Đoàn Hạnh tổng hợp >>> Tìm hiểu thêm: Khi tử thần Tite Kubo chiếm hữu linh hồn các fan truyện tranh

naoki urasawa

Urasawa Naoki sinh ngày 02/01/1960 tại tỉnh Fuchu, Nhật Bản, là một mangaka của Nhật. Giống với những họa sĩ vẽ truyện tranh khác, Urasawa đã có được niềm đam mê và khao khát được trở thành một họa sĩ truyện tranh từ khi còn rất nhỏ. Urasawa được biết tới nhiều nhất như là tác giả của nhiều bộ manga trinh thám ly kì nổi tiếng như Master Keaton, Monster, Plutovà 20th Century Boys.  Khi lên 5 tuổi, ông đã tự học bằng cách học vẽ và copy lại các tác phẩm của họa sĩ Osamu Tezuka, họa sĩ người Pháp Moebius và hai tên tuổi này cũng chính là thần tượng, là hình mẫu truyền cảm hứng cho công việc sáng tác của Urasawa sau này. Tuy nhiên, dù đam mê nghiệp vẽ truyện tranh như vậy nhưng con đường sự nghiệp của Urasawa không hoàn toàn thuận lợi như chúng ta vẫn tưởng. Theo lời chia sẻ của Urasawa thì ông có một quãng thời gian tuổi thơ không mấy hạnh phúc. Ngay từ bé, ông đã được nhồi nhét vào đầu những ý nghĩ rằng mình sẽ không thể thành công được với sự nghiệp vẽ truyện tranh. Chính vì thế mà ông đã theo học ngành kinh tế và tốt nghiệp bằng cử nhân với chuyên ngành này tại đại học Meisei. May mắn thay cho Urasawa, một biên tập viên của nhà xuất bản đã đề nghị được gặp và mong ông theo nghiệp sáng tác truyện tranh sau khi thấy các bức vẽ của Urasawa và hơn một năm sau đó, ở tuổi 21, ông đã có tác phẩm đầu tiên là Return. Dường như đam mê được thắp lại, liên tục những năm sau đó ông đã sáng tác truyện tranh không ngừng nghỉ. Năm 1982 Urasawa được trao giải Tác giả manga mới xuất sắc nhất. Từ năm 1986 đến năm 1993, ông sáng tác loạt manga Yawara! đăng trên tạp chí Big Comic Spirits. Đây là một tác phẩm mang đề tài thể thao nói về một cô gái trẻ yêu thích judo, bộ manga 29 quyển này đã giành Giải manga Shogakukan cho thể loại chung năm 1990. Cũng trong thời gian này, Urasawa còn minh họa cho loạt manga Pineapple ARMY gồm 10 tập cho nhà xuất bản Shogakukan.Năm 1988, Urasawa Naoki bắt đầu sáng tác bộ manga Master Keaton, một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. Loạt manga nói về một điều tra viên người Anh gốc Nhật tài năng với mơ ước khai quật được nền văn minh bị lãng quên ở châu Âu. Trong thời gian cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, Urasawa còn sáng tác hai bộ manga khác là NASA và Happy!. Năm 1994 ngay sau khi hoàn thành Master Keaton, Urasawa Naoki bắt tay vào tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, Monster. Kết thúc năm 2001 trên tạp chí Big Comic và sau đó được in thành 18 tập manga, tác phẩm với đề tài trinh thám ly kì pha chút kinh dị này đã được trao Giải manga Shogakukan hạng mục chung năm 2001 và Giải thưởng văn hóa Tezuka Osamu năm 1999. Năm 1999, Urasawa cho ra đời loạt manga 20th Century Boys, một thành công lớn khác của ông. Năm 2003, bộ manga này đã được trao Giải manga Shogakukan, một năm trước đó bộ truyện đã giành được một vinh dự hiếm có đó là Giải manga Kodansha vốn rất ít khi trao cho các tác phẩm xuất bản bởi Shogakukan, vốn là đối thủ cạnh tranh chính của Kodansha trên thị trường manga. 20th Century Boys còn được trao Giải xuất sắc tại Liên hoan Nghệ thuật Truyền thông Nhật Bản năm 2002 và giải Loạt truyện tranh xuất sắc nhất của Liên hoan truyện tranh quốc tế Angoulême năm 2004 tổ chức tại Pháp. Một series nổi tiếng khác là PLUTO, một loạt manga lấy cốt truyện từ tác phẩm nổi tiếng của Tezuka Osamu, Astro Boy. Bộ truyện đã được trao Giải xuất sắc tại Liên hoan Nghệ thuật Truyền thông Nhật Bản 2005 và Giải thưởng văn hóa Tezuka Osamu cùng năm. Và đa phần những tác phẩm trên đều mang chút gì đó khá u ám cùng những tình tiết mang màu sắc trinh thám, kì bí đầy uẩn khúc, để lại nhiều ấn tượng cho người xem. Phong cách vẽ và những điều không phải ai cũng biết về Naoki Urasawa Có lẽ không người hâm mộ manga nào có thể phủ nhận Naoki Urasawa chính là một đại diện tiêu biểu cho dòng manga hiện thực hiện đại (thập niên 1980-90). Những hình vẽ gọn gàng, dễ nhìn, những cảnh nền sắc sảo và những cốt truyện đặc sắc, tất cả đều mang tính chuyên nghiệp cao ở hầu hết các manga. Dĩ nhiên, khi mới bước vào nghề, các tác phẩm của Urasawa chưa đạt hiệu quả cao ngay lập tức như vậy. Seri khởi đầu Yawara! rõ ràng là chất lượng không được như Master Kaeton hay Monster về nét vẽ. Phong cách chính của ông mới được biết đến bằng 3 tác phẩm sau đó: Master Kaeton, Happy! và Monster. Các nhân vật của ông mang đậm chất đời thực, mạch truyện khá căng thẳng nhưng rất lôi cuốn người đọc và một vốn kiến thức chính xác đáng nể trong một số lĩnh vực đó là thế mạnh của Naoki Urasawa. Những manga của ông luôn đứng trong top 5 của các bảng xếp hạng ở Nhật về nội dung cũng như nét vẽ. Nhưng ít ai biết được rằng phong cách sáng tác của Urasawa được ảnh hưởng từ hai thần tượng của ông là Osamu Tezuka và Moebius. Ngoài ra thì có hai người khác được ông đề cập đến như những người có ảnh hưởng lớn nhất tới sự nghiệp của ông. Người đầu tiên là Takashi Nagasaki, người đồng nghiệp, người biên tập viên mà Urasawa coi

Hiro Mashima

Đối với Hiro Mashima, được làm truyện tranh là tất cả đối với ông. Ông từng nói rằng ký ức cuối cùng mà ông có thể nhớ được khi nhỏ là vẽ truyện tranh. Cha ông cũng là một họa sĩ khao khát được trở thành họa sĩ chuyên nghiệp, nhưng cha ông đã phải bỏ lỡ ước mơ mà qua đời khi Hiro Mashima còn rất nhỏ. Và mọi chuyện đã bắt đầu thay đổi khi người ông đã mang về cho Hiro một cuốn tạp chí manga mà người ông lấy được ở một nơi nào đó. Và từ đây, niềm đam mê của Hiro được nhen nhóm và ông bắt đầu sao chép lại thử cuốn tạp chí đó, cho đến khi ông nhận ra được rằng mình yêu thích vẽ đến dường nào. Khi ông tốt nghiệp cấp 2, ông theo học một trường chuyên dạy vẽ truyện tranh cho các họa sĩ. Tuy nhiên sau đó, ông đã bỏ ngang việc học của mình để tự sáng tác nên tác phẩm và mang đến cho các nhà biên tập truyện tranh. Tác phẩm đó đã giành được một vé vào một cuộc thi và đem lại cho ông sự chiến thắng. Tên tuổi của Hiro Mashima bắt đầu được khẳng định mạnh mẽ qua series manga vô cùng thành công Rave Master, được phát hành từ năm 1999 đến 2005. Và đến năm 2006, tên của ông lại được xướng lên trong rất nhiều lễ trao giải với “big hit” thứ 2 của mình: Fairy Tail – bộ manga hiện giờ vẫn đang làm bao độc giả chết mê chết mệt. Fairy Tail của Mashima đã truyền nguồn cảm hứng cho rất nhiều họa sĩ khác. Đầu tiên là từ mùa hè tháng 7/2014, Fairy Tail đã sở hữu riêng cho mình một cuốn tạp chí phát hành hàng tháng mang tên Monthly Fairy Tail, trong đó bao gồm cả một bộ truyện ăn theo khác của Mashima mang tên Fairy Tail Zerø. Vào năm 2014, 3 ngoại truyện khác của Fairy Tail liên tục được ra mắt: Tale of Fairy Tail: Ice Trail được vẽ bởi Yuusuke Shirato; Fairy Tail: Blue Mistral được vẽ bởi Rui Watanabe; và Fairy Girls được vẽ bởi BOKU. Mashima còn hợp tác với Miu Kawasaki để viết hai cuốn tiểu thuyết dòng light novels: The Color Residing Within The Heart (2012) và Fairy Tail 2: Each Single Day After the Grand Magic Games (2014)…. Phong cách và nguồn cảm hứng của Mashima Phòng làm việc của Mashima có 6 người trợ lý tính đến năm 2008, với 7 cái bàn, ghế sofa và Tv cũng như các trò chơi video khác (Ông đặc biệt khá thích chơi game). Mashima tiết lộ lịch làm việc của mình trong quá trình sáng tác nên bộ Fairy Tail là lên kịch bản và cốt truyện vào thứ hai, bản phác thảo thô ngày hôm sau, đi nét và lên mực vào thứ tư đến thứ sáu. Những ngày cuối tuần là cho Monster Hunter, cứ như vậy mỗi tuần được ¼ và sẽ hoàn thành vào ngày cuối tháng. Vào năm 2011, ông cũng tiết lộ rằng ông đã làm việc đến 6 ngày một tuần, 17 giờ một ngày. Hầu hết manga của Mashima đều là vẽ bằng tay. Hoặc đôi khi Mashima cũng thử sử dụng công cụ vẽ như Photoshop và ComicStudio. Dù là vậy thì ông luôn cố làm cho chúng cảm tưởng như là được vẽ và tô màu bằng tay. Mashima cố tránh việc phải dùng bất kì hiệu ứng nào mà chỉ có thể thực hiện bằng công cụ kỹ thuật số. Dụng cụ ưa thích của Mashima chính là bút Copic. Nhưng theo Mashima thì nó khá  khó để có thể sử dụng bình thường khi làm việc, và ông luôn thể hiện sự khiêm tốn của minh khi cho rằng biết giới hạn trong khả năng của mình và chỉ cố gắng để có thể tạo nên điều tốt nhất. Có một điều chúng ta chưa từng biết về hai bộ truyện nổi tiếng nhất của Mashima đó chính là ông đặt tên các các nhân vật của mình theo tên mùa. Trong Rave, nhân vật chính được đặt tên là Haru mà theo tiếng Nhật đó chính là mùa Xuân. Trong Fairy Tail, nhân vật chính là Natsu theo tiếng Nhật đó là mùa Hè. Trong Monster Soul, nhân vật chính của ông là Aki (mùa Thu), và trong Monster Hunter Orage, có một nhân vật tên là Shiki, theo tiếng Nhật đó là Mùa. Ông cũng đặt tên một nhân vật là Fuyu và theo tiếng Nhật đó là mùa Đông. Mashima cho biết trong một cuộc phỏng vấn rằng ông làm điều này bởi vì độc giả Nhật Bản có thể không quen thuộc với những cái tên phong cách phương Tây. Một đặc điểm nữa đó là các nhân vật chính của cả Rave và Fairy Tail đều không có cha, một phần là lấy từ chính kinh nghiệm riêng của Mashima khi cha ông qua đời khi ông còn trẻ. Ông luôn muốn để một vài điểm gì đó từ chính cá nhân mình vào từng nhân vật và luôn đặt những độc giả lên trên hết! Mashima từng tâm sự làm sao để có thể duy trì động lực để làm việc khi phải đối mặt với nhiều áp lực về thời gian đến thế: “Tôi cố gắng có được niềm vui hết sức có thể cả bây giờ và sau này nữa. Tôi đã dừng lại nhiều lần và làm những thứ khác biệt để tạo sự thay đổi. Đồng thời tôi chắc chắn các tác giả khác cũng đều cảm thấy điều này, nhưng tiếng nói của độc giả từ những lá thư mà người hâm mộ gửi tới đã khích lệ tôi. Nó khiến tôi muốn tiếp tục tạo nên một manga mà mọi người đều có thể yêu thích.”