Hoạt hình anime: “Disney phương Đông” - Comic Media Academy

Hoạt hình anime: Từ “Disney phương Đông” đến đế chế tỷ đô toàn cầu

20/04/2021

Quyền lực mềm – một cách để một quốc gia gây ảnh hưởng tới công chúng cũng như giá trị và quan điểm quốc tế – đã trở thành một phần quan trọng trong cuộc tranh đua ảnh hưởng giữa các quốc gia. Đối với Nhật Bản, văn hóa anime xuất hiện rất đúng lúc với chỗ đứng và tầm ảnh hưởng của riêng mình lên toàn thế giới.

“R màn đêm Tokyo với những ánh đèn neon hắt bóng trên đường, một băng đảng đua xe máy lao đi thật nhanh rồi dừng lại bên một chiếc hố đen khổng lồ được tạo ra sau một vụ nổ hạt nhân lớn. Chiếc hố thực sự quá khủng khiếp, tràn ra ngoài khuôn tranh và thấm đẫm cả trang truyện…” – Đây là phần mở đầu của cuốn truyện tranh manga giả tưởng nổi tiếng “Akira” (và sau này được chuyển thể thành hoạt hình anime) được họa sĩ người Nhật Katsuhiro Otomo cho ra mắt vào năm 1982. Các tác phẩm của Katsuhiro sau này cũng trở nên khá nổi tiếng tại thị trường Mỹ.

hoạt hình anime elle man "Akira" (1988)
“Akira” (1988)

Năm 1988, Otomo phát hành “Akira” dưới dạng một bộ phim hoạt hình anime. Đây được xem là một bộ phim hết sức chi tiết và phức tạp đến nỗi các nhà làm phim phải mất nhiều năm vẽ tay từng cảnh một nhằm mang lại một câu chuyện sống động nhất có thể, bên cạnh đó thì nó vẫn được xem là một tác phẩm kinh điển hết sức đình đám và đi đầu cho làn sóng du nhập truyện tranh manga và phim hoạt hình anime tới nền văn hóa phương Tây.

Với sự phong phú trong khai thác các thể loại, từ hành động, tình dục, khoa học giả tưởng cho tới lãng mạn, manga và anime phù hợp với mọi lứa tuổi và thị hiếu của khán giả. Những sản phẩm tạo được dấu ấn thương mại như PokemonDragon Ball Z đã mở ra một hình ảnh đất nước Nhật Bản mới mẻ cho toàn thế giới.

“Dragon Ball Z: Fusion Reborn” (1995)

Trong mắt người phương Tây, hình ảnh về xứ sở Phù Tang (từ năm 1980 cho tới năm 1990) mang hai thái cực: một nước Nhật phong kiến tập quyền được khắc họa thông qua các bộ phim Samurai với những ninja và kiếm sĩ; và một nước Nhật với sự vươn lên thần kì, mang tới thế giới bên ngoài những sản phẩm chất lượng như Walkman, Toyota,” Kaichiro Morikawa, một chuyên gia về phim hoạt hình anime tại Đại học Meiji, Tokyo cho biết trong một cuộc phỏng vấn qua điện thoại. “Sự phổ biến của các bộ truyện tranh manga, hoạt hình anime, trò chơi điện tử Nhật Bản đã giúp truyền tải hình ảnh đất nước – con người Nhật Bản nhân văn, và gần gũi hơn bao hết.”

Sau 7 năm tăng trưởng liên tục, ngành công nghiệp hoạt hình anime tại Nhật Bản đã lập kỷ lục mới trong doanh thu, vào năm 2017 ngành công nghiệp này đạt 2,15 nghìn tỷ Yên (tương đương 19,8 tỷ USD) mà phần lớn xuất phát từ nhu cầu của khán giả nước ngoài. Việc xuất khẩu các series phim hoạt hình và phim điện ảnh thông qua các thương vụ cho các đại gia trực tuyến như Netflix hay Amazon đã giúp tăng gấp ba lần doanh thu kể từ năm 2014. Và những con số này vẫn chưa có dấu hiệu chậm lại.

Một đất nước của văn hóa thị giác và những thước phim hoạt hình anime sơ khai

Nhật Bản vốn là quốc gia với nghệ thuật hình ảnh phát triển, cả về sự đa dạng và cầu kỳ, tỉ mẩn trong các tác phẩm. Người nghệ sĩ khắc gỗ nổi tiếng Katsushika Hokusai là một trong những nghệ sĩ tiên phong sử dụng thuật ngữ manga (trong tuyển tập “Hokusai Manga” ra mắt vào năm 1814) khi đề cập tới những bản phác thảo các hiện tượng siêu nhiên hay những thứ đơn giản. Manga như chúng ta biết ngày nay xuất hiện từ đầu thế kỷ 20 trong các trang truyện dài kì trên các tờ báo và tạp chí tại Nhật Bản.

Chân dung Hokusai được vẽ bởi Keisai Eisen. Nguồn: Wikimedia Commons
Chân dung Katsushika Hokusai được vẽ bởi Keisai Eisen. Nguồn: Wikimedia Commons

Katsushika Hokusai cũng chính là tác giả của bức tranh "The Great Wave off Kanagawa" nổi tiếng. Nguồn: Wikimedia Commons
Katsushika Hokusai cũng chính là tác giả của bức tranh “The Great Wave off Kanagawa” nổi tiếng. Nguồn: Wikimedia Commons

Anime xuất hiện vào khoảng đầu những năm 1900 khi các nghệ sĩ người Nhật Bản như Oten Shimokawa thử nghiệm sản xuất những đoạn film hoạt hình ngắn. Tuy nhiên lúc bấy giờ, sản xuất phim hoạt hình rõ ràng rất tốn kém và các tác phẩm làm tại Nhật Bản bị cái bóng quá lớn của Disney lấn át.

(Một trong những anime đầu tiên được làm ra vào năm 1917)

Trong thế chiến thứ II, anime bắt đầu phát triển khi chính phủ quân đội Nhật Bản yêu cầu các nhà sản xuất phim hoạt hình tạo ra các đoạn phim tuyên truyền để gây ảnh hưởng tới đám đông. Kể từ đó, dù Nhật Bản đã thất bại sau chiến tranh, các ngành công nghiệp manga hay anime vẫn bắt đầu tăng tốc.

Đến năm 1952, “cổ thụ” Osamu Tezuka cho ra đời tác phẩm “Astro Boy” – một bộ manga về cậu bé robot yêu hòa bình với sức mạnh phi thường và đôi mắt có thể phát tia X. Tác phẩm ngay lập tức được công chúng ưa thích đến nỗi khiến chủ nhân của nó – ông Tezuka – được ví như “cha đẻ của truyện tranh Nhật Bản.” Đồng thời, nó cũng nhanh chóng được chuyển thể thành phim hoạt hình vào năm 1963.

hoạt hình anime elle man "Astro boy" (1963)
“Astro boy” (1963)

Sức mạnh của ngành hoạt hình truyện tranh Nhật Bản nằm ở sự kết hợp giữa manga và anime, theo Ian Condry, tác giả cuốn “Anime: Linh hồn Nhật Bản” cho biết. “Những nhà sáng tạo sử dụng truyện tranh như một phép thử cho các câu chuyện và nhân vật. Đó là bí mật cho sự thành công của các bộ phim hoạt hình.”

Vào năm 1950, Toei Animation Studio (nơi Tezuka từng làm việc trước khi mở công ty riêng, Mushi Productions, vào năm 2961) đã đặt ra mục tiêu trở thành “Disney của phương Đông” và bắt đầu xuất khẩu phim hoạt hình sang Mỹ. Morikawa chia sẻ: “Niềm ham muốn xuất khẩu phim hoạt hình Nhật từ những ngày đầu tới toàn thế giới được truyền cảm hứng từ sự thành công của phim hoạt hình Disney, cũng như nhận định cho rằng anime sẽ thành công hơn ở thị trường phương Tây, thay vì các bộ phim truyện với diễn viên châu Á đóng chính.”

Tuy nhiên, trong khi “Astro Boy” thực sự tạo nên cơn sốt tại Nhật Bản, phải mất vài thập kỷ sau đó anime mới thực sự càn quét nước Mỹ.

(Triển lãm về những di sản nổi tiếng nhất của Osamu Tezuka: Astro Boy, Knight Pricess, Black Jack (hay quen thuộc với khán giả Việt Nam hơn với tên gọi “Bác sĩ quái dị”),…)

Nguồn gốc của hiện tượng

Vào những năm đầu 1980, các bộ phim hoạt hình anime du nhập tới Mỹ chủ yếu thông qua những đứa trẻ từ các gia đình quân đội hay thương nhân đang sống hoặc làm việc tại Nhật Bản, theo Mizuko Ito, biên tập viên của “Fandom Unbound: Otaku Culture in a Connected World.”

Những cái tên mang như “Cowboy Bebop,” “One Punch Man” đã khắc họa những hình ảnh tưởng tượng của người phương Tây về sự phát triển của ngành công nghiệp máy tính trong tương lai. Với các bộ anime có phụ đề cùng các bản chiếu lậu trên mạng, anime tiếp cận với thế giới nhanh chóng hơn.

hoạt hình anime elle man One Punch Man" (2015)
One Punch Man” (2015)

“Không giống như những hiện tượng toàn cầu khác (như Pokemon), anime không được thúc đẩy bởi những tập đoàn khổng lồ. Phần lớn sự thành công đến từ hiệu ứng truyền miệng,” Napier chia sẻ. “Đây được xem là một hình thức văn hóa đại chúng lớn mạnh được nhờ vào hiệu ứng truyền miệng đám đông.”

Khi nền kinh tế Nhật Bản nở rộ, vươn lên đứng thứ hai trên toàn thế giới vào năm 1980, các lớp học tiếng Nhật được mở ra nhiều hơn tại phương Tây. Anime và manga đi vào các lớp học như một công cụ giáo dục. Đồng thời, văn hóa “otaku” – những người hâm mộ cuồng nhiệt manga và anime – trở nên phát triển ở Nhật Bản. Với sự xuất hiện của Internet, những người hâm mộ này trên toàn thế giới lại càng có thể kết nối với nhau hơn bao giờ hết.

Thanh thiếu niên Mỹ tìm kiếm những sản phẩm văn hóa giúp họ có được những quan điểm mới mẻ và với họ, Nhật Bản là một đất nước đầy thú vị như chính “Akira” – một thế giới cyberpunk viễn tưởng với cốt truyện phức tạp đưa người ta tới những vũ trụ tâm lý và mỹ học khác nhau.

“Văn hóa Nhật Bản đưa người ta tới những chủ đề sâu xa hơn, thú vị hơn mà Mỹ hay châu Âu khó có thể tiếp cận,” Napier chia sẻ. “(Anime) đã trở thành một cách thức để khỏa lấp những khuyết thiếu về mặt trí tuệ tại phương Tây.”

(“Ghost in the Shell” – một anime về thế giới cyberpunk rất nổi tiếng vào những năm 90s được Hollywood làm live-action vào năm 2017 với vai chính là Thiếu tá Motoko Kusanaga do Scarlett Johanson đảm nhiệm.)

(Hay như một bộ anime khác cũng rất nổi tiếng về chủ đề cyberpunk là Alita: Battle Angle được đạo diễn James Cameron – người được biết là chịu nhiều ảnh hưởng của văn hoá Nhật Bản, đặc biệt là anime – chuyển thể live-acion thành công khi truyền tải gần như trọn vẹn nội dung và bám sát tạo hình nguyên tác.)

Thay đổi sự nhìn nhận

Vào cuối những năm thập niên 90s, sự hợp tác giữa các công ty Nhật Bản như Nintendo, Game Freak và Creatures đã giúp đẩy mạnh thương hiệu Pokemon, một tựa game với các tạo hình con vật hư cấu, vượt ra ngoài ranh giới Nhật Bản và đi vào văn hóa đại chúng.

Cơn sốt Pokemon càn quét khắp cả mọi nơi, đồng thời, thúc đẩy các hoạt động nhượng quyền thương hiệu về sản xuất anime, đồ chơi và thẻ giao dịch, đặc biệt hơn nữa là khi Pikachu trở thành “gương mặt thương hiệu” của một số nhà đài tại Mỹ. Nintendo đã bán được hơn 31 triệu bản game “Pokemon Red/Green/Blue” vào năm 1996 và các series hoạt hình đã được phát sóng hơn 100 quốc gia.

hoạt hình anime elle man "Pokemon: The First Movie" (1999)
“Pokemon: The First Movie” (1999)

Sự quan tâm của cả thế giới đối với hoạt hình anime đã ảnh hưởng vô cùng to lớn đến sự nhìn nhận của khán giả quê nhà đối với thể loại này, theo Takako Masumi, người phụ trách tại Trung tâm Nghệ thuật Quốc gia, Tokyo.

Masumi so sánh sự phổ biến ngày càng tăng của hoạt hình anime ở Nhật Bản tương tự như sự chuyển đổi của ukiyo-e (nghệ thuật khắc gỗ) từ một hình thức nghệ thuật cấp thấp đến cao cấp. Ukiyo-e ban đầu được sử dụng như một hình thức bảo vệ gốm sứ khỏi bị vỡ khi được xuất khẩu ra nước ngoài vào cuối thế kỷ 19.

Lúc đầu, giấy trang trí được coi không khác gì giấy thừa. Nhưng thái độ của người Nhật đối với ukiyo-e bắt đầu thay đổi khi người ta ở nước ngoài mua gốm sứ và bắt đầu thu thập lẫn định giá những bức tranh vô cùng xinh đẹp được sử dụng làm giấy gói. Từ đó, họ đánh giá lại và xem nó là một hình thức nghệ thuật.

Masumi cho biết, hoạt hình anime với tư cách là một trong những hình thức văn hóa thị giác cũng đã trải qua quá trình chuyển đổi tương tự. Ban đầu được bán ra với mức giá rẻ mạt bởi các studio hoạt hình, nó nhanh chóng được yêu thích trên thế giới. “Dù có mức giá khá rẻ, nội dung của các bộ anime đều rất hay và thu hút đặc biệt trẻ em”, Masumi – người phụ trách bảo tàng nghệ thuật quốc gia cho biết.

Cuối cùng, ngay kể cả chính phủ Nhật Bản cũng nhìn nhận hoạt hình anime như một cơ hội lớn để thay đổi và quảng bá hình ảnh đất nước.

(Theme song đầu tiên của Pokemon cho thị trường Mỹ và phương Tây)

Hoạt hình anime – Hình ảnh của văn hoá Nhật Bản mới

Sau khi nền kinh tế có phần đi xuống vào những năm 1990, Nhật Bản quyết định cần tái cấu trúc hình ảnh quốc gia, từ một siêu cường kinh doanh toàn cầu cho đến nhà xuất khẩu những sản phẩm văn hóa độc đáo: từ các dịch vụ công nghệ cao trong lĩnh vực tiếp thị đại chúng, cho đến truyền bá mọi thứ từ Hello Kitty đến sushi. Đến năm 1997, Cơ quan Văn hóa của Nhật Bản đã tiến hành thúc đẩy tổ chức các triển lãm về manga, anime, video game hay nghệ thuật truyền thông.

hoạt hình anime elle man "Princess Mononoke" (1997)
“Princess Mononoke” (1997) của đạo diễn lừng danh Hayao Miyazaki
Nhà báo người Mỹ Douglas McGray đã thấy được sự thay đổi này và thế hiện nó trong bài tiểu luận năm 2002 về Chính sách Đối ngoại của Nhật Bản với một thuật ngữ hoàn toàn mới “gross national cool,” hay gọi nôm na là “tổng độ ngầu/chất của một quốc gia.” McGray mô tả nó như là một “ý tưởng, một lời nhắc nhở rằng các xu hướng và sản phẩm thương mại, và sở trường của một quốc gia sản sinh ra chúng, hoàn toàn có thể được phục vụ cho mục đích chính trị và kinh tế.”

Quyền lực mềm – một cách để quốc gia nào đó gây ảnh hưởng tới công chúng cũng như giá trị và quan điểm quốc tế – đã trở thành một phần quan trọng trong cuộc tranh đua ảnh hưởng giữa các quốc gia. Xuất hiện kịp lúc là văn hóa anime với chỗ đứng và tầm ảnh hưởng của riêng mình lên toàn thế giới.

Sự phổ biến lại tiếp tục tăng lên đáng kể khi bộ phim “Spirited Away” của hãng phim Ghibli được đạo diễn bởi đồng sáng lập hãng Hayao Miyazaki ra mắt công chúng thế giới vào năm 2001. Bộ phim đã thu được 277 triệu USD phòng vé, trở thành bộ phim hoạt hình Nhật Bản có doanh thu cao nhất cho tới khi bị tác phẩm “Your name” của Makoto Shinkai ra mắt vào năm 2016 với doanh thu toàn cầu đạt 357 triệu USD đánh bại.

hoạt hình anime elle man vung dat linh hon
“Spirited Away” (2001)
Được xem là “Kho báu sống của quốc gia,” một sự công nhận của chính phủ cho những cá nhân có đóng góp xuất sắc vào việc bảo tồn văn hóa của đất nước, đạo diễn Hayao Miyazaki đã vẽ nên truyền thống của Nhật Bản cùng với sự tôn trọng trước thiên nhiên, và chạm vào trái tim của mọi người dân trên thế giới.

Anime có điểm tương đồng với văn hóa nhạc rock ‘n’ roll hay điện ảnh Hollywood, theo Doryun Chong, tổng giám đốc của M+ museum tại Hong Kong. “Không nghi ngờ gì khi anime được xem là một một trong những nét văn hóa đầu tiên, đồng thời, là phổ biến nhất, của làn sóng toàn cầu hóa.”

Khi ngành công nghiệp anime tiếp tục phủ sóng toàn cầu, nó đã không còn chỉ thuộc về người dân Nhật Bản nữa. “Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể nhìn thấy sự đa dạng hóa trong những sản phẩm có liên quan đến anime mà được sản xuất bên ngoài ranh giới Nhật Bản,” ông Chong cho biết. “Anime sỡ hữu khả năng kể những câu chuyện bằng hình ảnh hết sức tuyệt vời – và đó chính là gốc rễ cho sự thành công mang tính toàn cầu.”

Nguồn: Tạp chí Phái Mạnh ELLE Man